Những ai đã từng đọc thi hào Nguyễn Du cảm thông và xúc động trước những rung cảm của ông đối với nhân tình thế thái, đều không thể không biết đến hai câu thơ rất nổi tiếng: “Bất tri tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Không biết ba trăm năm về sau/Trong thiên hạ có ai khóc Tố Như không). Sinh thời Nguyễn Du có rất ít bạn tri kỷ, lúc mất đi ông lại còn lo rằng rồi sau này hậu thế cũng chẳng có ai hiểu được mình. Câu thơ lạnh buốt một nỗi đau không gì xoa dịu nổi. Tuy nhiên, điều đặc biệt ở xuất xứ kỳ lạ của bài thơ. Và cũng thật khó mà tưởng tượng rằng, những cảm xúc mà Nguyễn Duđã viết ở đây xuất phát từ hình ảnh một người phụ nữ xa lạ.
Một số giai thoại lịch sử kể rằng: trong một lần đi xứ nhà Thanh, nhân tình có nghé qua vùng Tây Hồ, Nguyễn Du đã dọc được phần dư cảo thơ còn xót lại của một người con gái tên là Phùng Tiểu Thanh (1594-1612) sống ở đời nhà Minh trước đó 300 năm. Bùi ngùi và xúc động trước câu chuyện cảm động về nàng ông đã viết nên cảm xúc của minh trong bài thơ có tên là Độc Tiểu Thanh ký. Nguyên tác chữ Hán bài thơ thể thất ngôn bát cú như sau:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phán hữu thân lân tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất chi tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Dịch nghĩa :
“Vườn hoa Tây Hồ đã thành bãi hoang hết
Một mình ngồi trước cửa sổ viết một tờ thư viếng
Son phấn có thần nên để lại niềm xót thương sau khi chết
Văn chương không có duyên phận đốt đi còn luỵ lại
Mối hận cổ kim khó hỏi trời
Oan lạ của người phong vận ta cũng thấy mình trong ấy
Không biết ba trăm năm sau
Trong thiên hạ có ai khóc Tố Như không ?”
Dịch thơ :
“Tây Hồ vườn cũ bãi hoang cây
Đôi vần thơ điếu lệ vơi đầy
Hương phấn hồn tan còn sầu cảm
Văn chương, duyên nợ luỵ lòng ai
Hậu sầu kim cổ khôn trời hỏi
Phong vận oan tình trói chung dây
Ba trăm năm nữa trong thiên hạ
Ai người sẽ khóc Tố Như đây ?”
( Hàn Vũ Linh tạm dịch thơ)

Từ xưa tới nay biết bao nhà thơ đã viết về thân phận của những người phụ nữ tài sắc nhưng luôn gặp những nghịch cảnh éo le ngang trái trên đường đời. Họ là những Tây Thi, Điêu Thuyền bị bán buôn trên bàn cờ chính trị, là Chiêu Quân bị bắt sang Hung Nô để đem nhan sắc đổi lấy yên bình, là Lý Thanh Chiếu (1084-1155) thông minh tài sắc mà phải truân chuyên, loạn lạc trong khói lửa binh đao của những cuộc chiến tranh đời Tống, là Đỗ Thập Nương nhà thơ nữ sĩ tài hoa đời Minh phải dấn thân làm kỹ nữ. Và rồi trong xã hội Nho giáo hà khắc với phụ nữ ấy, còn bao nhiêu nữ sĩ không được lưu tên đã phải làm cung nô, tỳ thiếp đến nỗi mai một cả tài năng. Bao nhiêu người con gái đàn hay, hát giỏi, bách nghệ, cầm, kỳ, thi, họa, sinh ra và lớn lên chỉ để mua vui cho thiên hạ, khi về già chỉ còn biết ôm mối hận sầu trên những bến sông góc chợ, đìu hiu cô quạnh không người thương xót.
Cũng như những nhà thơ có tâm hồn đa cảm và giầu lòng nhân ái khác, Nguyễn Du đã khóc rất nhiều cho cuộc đời của chúng sinh đau khổ, cho những điều tốt đẹp và cao thượng bị chà đạp và dập vùi. Nhưng khác với những nhà thơ đương thời với mình, Nguyễn Du bao giờ cũng dành chỗ sâu kín nhất của tâm hồn, chỗ nhạy cảm nhất trong trái tim để cảm nhận và xót thương cho những thân phận phụ nữ liễu yếu đào tơ. Trước một nàng Kiều bán mình chuộc cha, trước một kỹ nữ đàn hay nhưng bất hạnh ở đất Long Thành, trước một Dương Quý Phi (719 -756) sắc nước hương trời bị bức tử Nguyễn Du phải thốt lên :
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” .
(truyện Kiều)
Bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” cũng là một mạch chảy trong nguồn rung động sâu xa của ông về những số phận phụ nữ đắng cay và oan nghiệt.
Theo tình sử, Tiểu Thanh là một người con gái thông minh lại thêm tài sắc vẹn toàn, đặc biệt là về văn chương thi phú, “xuất khẩu thành thi” trong thiên hạ thật ít có người bì kịp. Tuy nhiên do những éo le trong cuộc sống, những định mệnh khắt khe của lễ giáo ràng buộc nàng đã phải lấy lẽ một thư sinh họ Phùng ở đất Hàng Châu. Phùng Sinh vốn là người nhu nhược và ích kỷ. Vợ cả của chàng ghen tức nên đã đày đọa, hành hạ Tiểu Thanh bằng đủ cách rồi xua đuổi nàng về một căn nhà hẻo lánh ở Côn Sơn bên cạnh Tây Hồ. Mây nước, cỏ hoa hiu quạnh không làm vơi đi nỗi lòng cô đơn, sầu tủi của một người con gái đa sầu, đa cảm mới 18 tuổi. Những vần thơ tâm sự chẳng biết ngỏ cùng ai của nàng chỉ làm tăng thêm nhưng sầu muộn bi thương cho vạn vật xung quanh.
Và ngày tháng cứ trôi qua, nàng Tiểu Thanh đã phải sống trong nỗi buồn bực, uất ức héo hon tiều tuỵ rồi cuối cùng sinh bệnh mà chết. Những bài thơ bi ai nhưng tuyệt hảo, những lời yêu thương như cay đắng mà nàng gửi cho chồng cuối cùng cũng bị người vợ cả tìm kiếm và đốt hết. Di sản cuối cùng mà nàng để lại được cho người đời sau chỉ là một vài vần điệu còn xót lại trong đám tàn lửa ghen tuông quái ác.

Năm tháng đã qua đi, gió đã bao lần đổi mùa, cây đã bao lần thay lá, phấn đã nhạt, son đã phai, gương vỡ, trâm rơi, hoa tàn, trăng khuyết và cả vườn hoa, khoe sắc bên Tây Hồ thuở ấy nay đã trở thành đồng cỏ hoang sơ, không vướng chút bụi bậm kinh kỳ. Vạn vật tưởng chừng như đã biến đổi, mọi thứ dường như đã buông trôi theo dòng quên lãng của thời gian. Đã ba trăm năm qua rồi, ngần ấy thời gian, ngần ấy dâu bể. Chẳng còn ai nhớ gì nữa về người con gái 18 tuổi, nàng Tiểu Thanh tội nghiệp. Chẳng mấy ai quan tâm đau khổ với nỗi oan nghiệt của nàng. Nàng bé nhỏ quá mà dòng đời thì thật phũ phàng và băng lạnh.
Nhưng chính nàng Tiểu Thanh cũng không thể ngờ được rằng sau “Ba trăm năm” nơi chốn “thiên hạ” hồng trần lại có một người từ xứ sở thật xa xôi đến cảm thông và khóc cho số phận tưởng như mai một theo sương gió, thời gian của mình. Đó là một đại thi nhân Việt Nam: Nguyễn Du. Dường như ở trên đời này, những sự rung cảm nhân đạo nhất, những niềm vui, nỗi buồn của con người có thể đến với nhau, hoà đồng vào nhau, vượt qua mọi sự cách ngăn về không gian và thời gian. Đối với Nguyễn Du nàng Tiểu Thanh dù đã chết, nhưng tài sắc của nàng, tâm hồn trong sáng và thanh cao của nàng thì không một uy lực nào, một sức mạnh nào có thể tàn phá nó được.
“Hương phấn hồn tan còn sầu cảm
Văn chương, duyên nợ luỵ lòng ai”
Phấn hương của người đàn bà đẹp, tình duyên lứa đôi và những vần thơ ấm áp tình người có một cái gì đó giống nhau ở cốt lõi của nó. Đó là cái đẹp và sự thanh cao hoà trộn vào nỗi khổ đau không cùng, tạo nên sự trường cửu. Trông người lại nghĩ đến ta, Nguyễn Du khóc cho một nàng Tiểu Thanh oan nghiệt hay đang thương cảm cho cái thân phận của chính mình, một tài năng mà lận đận suốt cuộc đời, phải lánh xa thời cuộc, chôn vùi đi bao khát vọng, ước mơ, hoài bão từ thời trai trẻ. Ta khóc cho nàng, ta cảm thương với cái “khối tình ôm xuống tuyền đài chưa tan ” của nàng nhưng rồi nàng còn có một chút gì may mắn, còn ta ba trăm năm nữa chắc đã có mấy người hiểu ta và khóc cho ta. Ôi, đi tìm một sự tri kỷ trong lòng đời lạnh lùng và đen bạc sao mà khó khăn thế. Cả Tiểu Thanh và Nguyễn Du đều đã không thể vượt qua những gì như là định mệnh và càng không thể vượt qua được những sợi dây vô hình ràng buộc cái xã hội và thời đại mà họ đang sống. Chỉ có thể trở về với bản chất nhân ái trong mỗi con người, mới có thể nguôi ngoai nỗi tuyệt vọng, những đắng cay mất mát của thực tại để vươn tới cái đẹp vĩnh cửu. Giá trị đích thực và cao hơn cả những vần điệu, chữ nghĩa của bài thơ là ở chỗ đó.
Thông qua cuộc đời oan nghiệt của một người con gái, với một tâm hồn lãng mạn, đa cảm và giầu lòng nhân hậu, Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta những vần thơ thật là kỳ diệu. Ông xứng đáng được coi là một trong những nhà thơ viết về thân phận người phụ nữ sâu sắc và nhân đạo nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.
