MỘT SỐ CHỈ BÁO VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY

Đã từ khá lâu trong lịch sử, con người đồng nghĩa giá trị với ba yếu tố “chân” ( cái đúng), “thiện” (cái tốt) và “mỹ” (cái đẹp). Quan niệm đó đến nay vẫn thừa nhận trên bình diện các khoa học cũng như trong đời sống của con người và xã hội loài người. Hai nhà khoa học F.W. Znaniecki (1882 – 1958) và W.I. Thomas (1863 – 1947) từ những năm đầu thế kỷ XX, trong tác phẩm nổi tiếng “Những người nông dân Ba Lan ở châu Âu và Mỹ” đã là một trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ giá trị để phân tích cấu trúc hành vi của các chủ thể. Trên phương diện lý thuyết, các nhà Tâm lý học và Xã hội học đều thừa nhận giá trị và định hướng giá trị là những dạng thức đặc biệt của tư duy con người. Một mặt nó mang ý nghĩa về hoạt động tinh thần, tình cảm, tri thức, định hướng cho hành vi của cá nhân, cộng đồng trong hoạt động trong thực tiễn. Bản thân mỗi giá trị tích cực sẽ trở thành nền tảng cho việc xây dựng những giá trị tích cực khác mà con người mong muốn vươn tới, đồng thời điều chỉnh những suy nghĩ và hành vi sai lệch ở mỗi cá nhân và cộng đồng. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, giá trị luôn chịu sự tác động và chi phối của tồn tại xã hội với những điều kiện cụ thể về lịch sử, văn hóa, xã hội, trình độ sản xuất và phát triển của mỗi cộng đồng, dân tộc cũng như của các nhóm và giai tầng xã hội.

Cho đến nay các nhà tâm lý học và xã hội học sử dụng khá nhiều thuật ngữ “định hướng giá trị” trong những công trình nghiên cứu của mình, để phân tích quá trình biến đổi tâm lý, hành vi của cá nhân, nhóm, cộng đồng thông qua các mối quan hệ và tương tác xã hội. Một học giả nổi tiếng người Nga, A.G. Zdraromuxlov, đã phân tích định hướng giá trị như quá trình hướng đích của mỗi chủ thể với những nỗ lực tìm kiếm mục tiêu, cách thức và phương tiện nhằm thu được lợi ích, cũng như đạt được hiệu quả công việc trong các hoạt động sống của con người.

Cùng với cách tiếp cận tâm lý học động cơ của A.G.Zdraromuxlov, một số học giả phương Tây tiếp cận về định hướng giá trị xoay quanh thái độ ứng xử của con người, thể hiện qua mổi quan hệ trực tiếp giữa ba yếu tố nhận thức, tình cảm và hành động. Con người ở đây luôn phải tự đấu tranh và quyết định cho những chọn lựa về giá trị sống cả về giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng từ việc lựa chọn giá trị, định hướng giá trị trở thành một trong những thành tố quan trọng cấu thành nhân cách. Nó cũng là cơ sở cho sự nhìn nhận, đánh giá của con người với những gì đang diễn ra xung quanh họ, đồng thời là công cụ giúp họ điều chỉnh hành vi của mình.

Minh họa internet

Giá trị và định hướng giá trị là đặc biệt quan trọng với thế hệ thanh niên và sinh viên ngày nay. Trong những năm gần đây, sinh viên, một nhóm nhân khẩu học – xã hội với những đặc thù về tâm lý, lứa tuổi, trình độ học vấn, họ đã không chỉ đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà bên cạnh đó còn thể hiện vai trò là những người kiến tạo giá trị mới của dân tộc và thời đại. Tuy nhiên cũng có thể thấy sự giao thoa giữa các hệ giá trị phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, kinh tế và văn hoá, tri thức và thực tiễn, cùng với những tác động của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa hiện nay đang đặt sinh viên trước những khó khăn, thách thức lớn trong định hướng giá trị của mình. Nghiên cứu định hướng giá trị của sinh viên trong bối cảnh xã hội hiện nay là hết sức cần thiết hướng đến những giải pháp xây dựng môi trường phát huy giá trị tích cực trong sinh viên, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu, đáp ứng những yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng con người Việt Nam trong các giai đoạn phát triển mới.

Với mục tiêu nghiên cứu làm rõ những vấn đề trong định hướng giá trị của sinh viên, vừa qua Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển đã tổ chức trưng cầu ý kiến của 1154 sinh viên thuộc 31 trường đại học tại ba địa bàn Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng 4 hệ chỉ báo để đo lường định hướng giá trị của sinh viên, đó là : nhóm giá trị liên quan đến học vấn, tri thức, nhóm giá trị liên quan đến lao động, nghề nghiệp, nhóm giá liên quan đến quan hệ ứng xử, nhóm giá trị tổng hợp bao gồm các những giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Hai tiêu chí cơ bản trong đo lường được đưa ra cho nhóm sinh viên lựa chọn, đó là những giá trị được họ coi trọng và những giá trị họ cảm thấy cần thiết trong cuộc sống học tập, lao động và sinh hoạt của mình. Bài viết này xin được trình bày đến một số phát hiện chính từ kết quả cuộc nghiên cứu.

Tác phẩm đường phố, minh họa internet33

Trước hết tìm hiểu định hướng giá trị của sinh viên trong vấn đề tri thức, theo kết quả điều tra bảng 1, tỷ lệ % sinh viên lựa chọn các giá trị mà họ coi trọng hiện nay khá đồng đều đối vói 5 giá trị “tri thức giao tiếp ứng xử” (47.8%), “tri thức thực tiễn” (47.4%) , “tri thức kinh nghiệm” (46.9%), “tri thức khoa học cơ bản” (46.6%) và “tri thức do thế hệ trước truyền lại” (46.2%). Trong khi đó hai chỉ báo còn lại có tỷ lệ sinh viên lựa chọn thấp hơn với 33.1% sinh viên coi trọng “tri thức trong lao động sản xuất” và 34.5% là “tri thức trong lĩnh vực khác”.

Nếu như sự chênh lệch trong giá trị hướng tới các loại tri thức được sinh viên hiện nay coi trọng là không nhiều, thì trái lại sự khác biệt lại thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa tri thức và giá trị mà sinh viên cho là cần thiết với bản thân họ. Theo kết quả điều tra bảng 47, có 3 giá trị tri thức mà sinh viên cho là cần thiết có tỷ lệ đồng thuận cao hơn so với các giá trị khác, xếp theo thứ tự là “tri thức kinh nghiệm” (61.4%), “tri thức giao tiếp ứng xử” (60.7%) và “tri thức thực tiễn” (60.0%).  Xếp ở thứ tự tiếp theo là “tri thức khoa học cơ bản” (48.7%). Sự hoán đổi vị trí trong bảng giá trị cần thiết so với bảng giá trị coi trọng là  “tri thức trong lao động sản xuất” (46.4%) thay thế cho vị trí của “tri thức do thế hệ trước truyền lại” (38.0%).

Qua số liệu bảng 1, có thấy sinh viên ngày nay vẫn tin tưởng và đề cao vai trò của tri thức mà họ cần học hỏi, đó là cách đối nhân, xử thế trong quan hệ ứng xử, kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn của bản thân. Những khó khăn trong cuộc sống của sinh viên đã biểu hiện ngay từ chính suy nghĩ thực tế của nhóm đối tượng đặc thù này khi không có nhiều sinh viên đề cao giá trị của tri thức cơ bản. Đây cũng là khó khăn đối với xã hội khi chúng ta đang từng bước hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức dựa trên nền tảng của các khoa học cơ bản. Điều đó cũng lý giải thực tế quá trình học tập của sinh viên hiện nay thường thường biểu hiện tâm lý nóng vội, ham thích học những thứ mà mình cho là cần thiết hoặc có thể vận dụng ngay được vào công việc. Trong khi đó họ lại ít chú ý đến việc học tập, nghiên cứu một cách khoa học và bài bản.

Thanh niên trước áp lực hiện đại, minh họa internet

Bên cạnh đó sinh viên cũng không tin tưởng nhiều vào tri thức do thế hệ trước truyền lại là cần thiết, dù tỷ lệ này có cao hơn trong bảng giá trị được sinh viên coi trọng. Điều này cũng cho thấy sinh viên ngày nay tỏ ra khá tự tin trong việc học tập,  và quá trải nghiệm của mình trong cuộc sống. Điều đó cũng luôn tạo ra tâm lý chủ quan, duy ý chí trong học tập.

Đối với định hướng giá trị của sinh viên trong vấn đề lao động, kết quả điều tra bảng 2 cho thấy có 4 giá trị được sinh viên coi trọng với tỷ lệ đồng thuận trên 50% sinh viên trong mẫu điều tra bao gồm “đạo đức nghề nghiệp” (53.8%), “quý trọng thành quả trong lao động” (51.6%),  “ý thức sáng tạo trong lao động” (51.5%) và “tôn trọng người lao động” (50.3%).

Ở cấp độ có tỷ lệ sinh viên đồng thuận từ 40% trở lên bao gồm các giá trị được coi trọng như “Yêu thích công việc của mình” (46.7%), “ độc lập tự chủ trong lao động”(43.7%), “đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp” (42.7%) và  “Chăm chỉ, cần cù” (41.2%).  Ngoài ra có 39.6% sinh viên coi trọng “sự linh hoạt trong công việc” và 36.4% coi trọng việc “chọn nghề có thu nhập cao”. Điều đáng mừng là chỉ có một số ít sinh viên (15.9%) coi trọng việc tìm “công việc nhàn hạ, dễ làm”.

Phân tích tương quan giữa các biến số cho thấy những giá trị lao động được sinh viên coi trọng có một số khác biệt theo phân bố giới tính và khu vực. Nhóm sinh viên nữ có tỷ lệ tin tưởng tích cực hơn so với nhóm sinh viên nam trong một số giá trị như “đạo đức nghề nghiệp”, “ý thức sáng tạo trong lao động”, “linh hoạt trong công việc” và “yêu công việc của mình”. Trong khi nhóm sinh viên nam lại có khuynh hướng coi trọng giá trị kiếm tiền, làm giầu hơn so với nhóm sinh viên nữ trong chỉ báo “chọn nghề có thu nhập cao” ( 41.3% so với 32.8%).

Đối với những giá trị, lao động được sinh viên coi là cần thiết trong cuộc sống bản thân, kết quả bảng 2 cũng phản ánh khá nhiều sự khác biệt so với chính sự lựa chọn của họ trong bảng giá trị được coi trọng. Hai yếu tố có tỷ lệ sinh viên lựa chọn nhiều nhất, đó là linh hoạt trong công việc, chiếm 57.5% và “yêu thích công việc của mình” (51.1%).

Ngoài ra các giá trị tích cực khác được sinh viên cho là cần thiết có tỷ lệ  lựa chọn tương đối đồng đều xếp theo thứ tự lần lượt là “đạo đức nghề nghiệp” (46.5%), “ý thức sáng tạo trong lao động” (46.4%), “đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp” (46.0%), “chọn nghề có thu nhập cao” (45.4%), “ độc lập tự chủ trong lao động”(43.9%), và  “Chăm chỉ, cần cù” (42.4%), “tôn trọng người lao động”  (41.1%) và “quý trọng thành quả trong lao động” (38.3%). Yếu tố coi trọng “công việc nhàn hạ, dễ làm” vẫn xếp ở vị trí cuối cùng với 24,4% sinh viên lựa chọn.

Mối quan hệ tương quan giữa các giá trị sinh viên cho là cần thiết với giới tính không có nhiều sự khác biệt ngoại trừ yếu tố “chọn nghề nghiệp có thu nhập cao”. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỉ báo này nhóm sinh viên nữ có xu hướng lựa chọn cao hơn so với nhóm sinh viên nam, trong khi với cùng giá trị này nhóm sinh viên nam lại tỷ lệ lựa chọn ở bảng giá trị được coi trọng cao hơn so với nhóm sinh viên nữ. Điều này phản ánh nhóm sinh viên nữ có suy nghĩ thực tế hơn về giá trị kiếm tiền, làm giầu trong khi điều này đối với một số sinh viên nam lại thiên nhiều hơn về sự ham thích, khẳng định bản thân.

So sánh kết quả điều tra trong bảng 2, có thể thấy mặc dù phần đông sinh viên có sự tin tưởng tích cực vào các giá trị lao động, tuy nhiên sự khác biệt cũng thể hiện khá rõ giữa giá trị coi trọng và giá trị cần thiết. Trong bảng giá trị được sinh viên coi trọng yếu tố “linh hoạt trong công việc” xếp thứ 9, thì trái lại trong bảng giá trị được sinh viên coi là cần thiết lại có tỷ lệ sinh viên lựa chọn nhiều nhất. Điều này cho thấy sinh viên đã nhận thức khá rõ về yêu cầu của sự linh hoạt, thích ứng nhanh với môi trường công việc năng động và cạnh tranh hiện nay. Bên cạnh đó điều đáng mừng là sinh viên hiện nay hướng tới các giá trị mà họ vừa coi trọng, vừa cần thiết phản ánh tính tích cực xã hội như lòng yêu nghề và đạo đức nghề nghiệp. Các giá trị lao động chung chung như “quý trọng thành quả lao động”, “tôn trọng người lao động” được nhiều sinh viên đặt ở vị trí cao trong bảng giá trị được coi trọng, tuy nhiên ở bảng giá trị cần thiết họ lại đề cao những giá trị cụ thể liên quan đến những phẩm chất cá nhân mà họ cần phấn đấu.

Cùng với những giá trị về tri thức và giá trị về lao động, tìm hiểu niềm tin của sinh viên trong các giá trị về quan hệ ứng xử trong cuộc sống, trước hết, theo kết quả điều tra bảng 3, giá trị được sinh viên coi trọng nhất là “kính trọng người lớn tuổi”, với tỷ lệ sinh viên đồng thuận khá cao (76.8%). Tiếp theo là hai giá trị có tỷ lệ trên 50% sinh viên đồng thuận bao gồm “hoà thuận, nhường nhịn anh chị em” (54.9%) và “lịch sự trong quan hệ giao tiếp” (51.2%).  Các giá trị còn lại đều có tỷ lệ sinh viên lựa chọn trong khoảng từ 40% – 50% xếp theo thứ tự là “quan hệ tốt với bạn bè” (49.1%), “biết cảm thông và chia sẻ” (46.7%), “tôn trọng đồng nghiệp” (44.2%) và “năng động trong các mối quan hệ” (41.8%).

Kết quả bảng 3 cũng chỉ ra sự khác biệt về giới tính trong sự lựa chọn những giá trị được coi trọng của sinh viên hiện nay, trong đó nhóm sinh viên nữ có tỷ lệ lựa chọn chênh lệch cao hơn so với nhóm sinh viên nam ở hai giá trị “biết cảm thông và chia sẻ” và “độc lập khẳng định cá nhân”. Điều đáng ngạc nhiên là nhóm sinh viên xuất thân ở thành phố  lại có tỷ lệ lựa chọn hai giá trị “biết cảm thông và chia sẻ” và “quan hệ bạn bè tốt” cao hơn so với nhóm sinh viên xuất thân từ nông thôn và miền núi (Xem bảng 3 ).

Đối với các giá trị sinh viên cho là cần thiết trong quan hệ ứng xử, theo kết quả bảng 3, hầu hết tỷ lệ % lựa chọn của sinh viên đều tăng lên so với trong những giá trị này khi xếp ở tiêu chí được coi trọng. Điều này phản ánh sự tin tưởng tích cực của sinh viên trong giá trị ứng xử với cuộc sống là một trong những yếu tố cơ bản giúp họ thành công và khẳng định được vị trí, vai trò của bản thân. Hai giá trị được sinh viên lựa chọn nhiều nhất là “năng động trong quan hệ” chiếm tỷ lệ 60.5% và “quan hệ tốt với bạn bè” chiếm tỷ lệ 60.1%. Tiếp theo là các giá trị được sinh viên lựa chọn với tỷ  lệ từ 50% trở lên bao gồm “độc lập, khẳng định cá nhân” (55.7%), “cảm thông và chia sẻ” (54.7%), “lịch sự trong quan hệ giao tiếp” (54.4%), “hoà thuận với anh chị em” (53.6%), “tôn trọng đồng nghiệp” (52.7%). Yếu tố đứng cuối cùng là “kính trọng người lớn tuổi”, chiếm tỷ lệ (40.8%).

So sánh giữa hai bảng giá trị sinh viên coi trọng và giá trị cần thiết, số liệu điều tra lại phản ánh sự khác biệt khá lớn trong định hướng giá trị ứng xử của sinh viên. Điển hình nhất là sự hoán chuyển của hai vị trí giá trị “kính trọng người lớn tuổi” và “năng động trong quan hệ” từ vị trí thứ 1 xuống vị trí thứ 9 và từ vị trí thứ 9 lên vị trí thứ nhất. Điều này phản ánh thực tế niềm tin trong định hướng giá trị của nhiều sinh viên hiện nay biểu hiện khá mâu thuẫn và phức tạp. Những giá trị được họ tôn trọng nhiều khi không có điều kiện phát huy và vận dụng được trong cuộc sống. Giá trị ở đây biểu hiện khuynh hướng thiên về tình cảm. Trong khi ngược lại có một số giá trị vận dụng được trong cuộc sống lại có sự biểu hiện thiên về lý trí.

Bên cạnh những chỉ báo đo lường về niềm tin của sinh viên biểu hiện trong định hướng giá trị tri thức, lao động và ứng xử, chúng tôi tiến hành đo lường mô hình bảng giá trị tổng hợp của sinh viên hiện nay, đặc biệt làm rõ những giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong suy nghĩ và hành vi của sinh viên hiện nay. Theo kết quả điều tra bảng 4, hầu hết các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đều được sinh viên hiện nay tin tưởng và coi trọng. Đứng đầu là giá trị “lòng yêu nước” với tỷ lệ sinh viên lựa chọn khá cao (72.8%). Tiếp đến là hai giá trị “lòng hiếu thảo” (62.6%) và “tinh thần tôn sư trọng đạo” (60.0%). Các giá trị có tỷ lệ sinh viên lựa chọn từ 50% trở lên xếp theo thứ tự lần lượt là : “tinh thần đoàn kết, tập thể” (57.6), “ý thức trách nhiệm, đức hi sinh” (53.5%), “tinh thần uống nước nhớ nguồn” (53.0%), “lòng nhân ái, bao dung” (50.5%) và lý tưỏng cách mạng (50.1%).

Ngoài ra với 16 giá trị còn lại đều có tỷ lệ sinh viên lựa chọn khá cao ( trên 35%). Điều này cho thấy niềm tin của sinh viên biểu hiện trong hầu hết các giá trị là tích cực, đặc biệt là sự lựa chọn giá trị khá đồng đều trong các nhóm sinh viên phân theo nam nữ và khu vực. Tuy nhiên số liệu điều tra cho thấy trong bảng giá trị coi trọng phản ánh những giá trị mới liên quan đến kinh tế thị trường chưa được sinh viên nhiều sinh viên thực sự coi trọng trong đời sống tình cảm của họ như giá trị “phát huy mọi năng lực cá nhân” ( xếp thứ 22), “có ý thức làm giầu” (xếp thứ 23) và “sẵn sàng cạnh tranh để thành công” (xếp thứ 24).

Tìm hiểu về những giá trị sinh viên cho là cần thiết hiện nay trong bảng giá trị tổng hợp, theo kết quả điều tra, tỷ lệ phần trăm sinh viên lựa chọn phân bố khá đồng đều giữa các nhóm giá trị và không có giá trị nào đạt tỷ lệ sinh viên đông thuận từ 60% trở lên. Những giá trị có tỷ lệ sinh viên đồng thuận nhiều nhất, đều thể hiện phẩm chất và vai trò của cá nhân xếp theo thứ tự bao gồm : “lạc quan, yêu cuộc sống” (56.4%), “tinh thần học tập ham hiểu biết” (55.9%), “lòng kiên trì phấn đấu vươn lên” (55.5%), “ phát huy mọi năng lực cá nhân” (55.3%), “độc lập, tự chủ trong cuộc sống” (55.0%), “tôn trọng người khác” (53.6%), “sống có lý tưởng, mục đích” (52.8%) và “lối sống giản dị, tiết kiệm” (52.5%). 16 giá trị còn lại có tỷ lệ sinh viên lựa chọn từ 30% đến dưới 50%.

Theo số liệu điều tra, sự thay đổi giữa các nhóm giá trị biểu hiện khá mạnh trong tỷ lệ sinh viên đồng thuận giữa những giá trị được coi trọng và những giá trị họ coi là cần thiết. Nếu như những giá trị truyền thống được nhiều sinh viên tin tưởng, đề cao trong bảng giá trị coi trọng thì xu hướng cá nhân và thực tế hoá giá trị lại biểu hiện khá rõ trong bảng giá trị cần thiết. Điển hình như các giá trị “lòng kiên trì phấn đấu vươn lên” (xếp thứ 3), “Phát huy mọi năng lực cá nhân” (xếp thứ 4), “độc lập, tự chủ trong cuộc sống” (xếp thứ 5) và ý thức làm giầu (xếp vị trí thứ 10).

Ngược lại với một số giá trị truyền thống tốt đẹp được coi trọng thì lại giảm vị trí trong bảng giá trị cần thiết như : “lòng hiếu thảo ( xếp thứ 12), “lòng nhân ái bao dung” ( xếp thứ 12), “tinh thần đoàn kết tập thể” (xếp thứ 16), “tôn sư trọng đạo” (xếp thứ 18) và “ý thức trách nhiệm, đức hi sinh” (xếp thứ 21). Đáng chú ý nhất là hai giá trị “lý tưởng cách mạng” (xếp thứ 23) và “lòng yêu nước” (xếp thứ 24).

Qua số liệu phân tích có thể thấy niềm tin trong định hướng giá trị của sinh viên hiện nay có nhiều biến động. Sinh viên tỏ ra khó khăn trong việc vận dụng những giá trị truyền thống tốt đẹp, giá trị con người, nhân văn trong thực tiễn cuộc sống dù phần đông trong số họ vẫn tin tưởng vào ý nghĩa của những giá trị này. Không thể phủ nhận sự lên ngôi của những giá trị thời đại mới, đặc biệt là các giá trị kinh tế, giá trị cá nhân đang tạo ra những lợi ích thiết thực cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên những tác động và ảnh hưởng của hệ giá trị không phải chỉ trong những việc cụ thể và trước mắt mà nó còn ảnh hưởng lâu dài đến đời sống tinh thần của con người và xã hội. Điều đang nói là trong suy nghĩ của nhiều sinh viên hiện nay, có không ít các giá trị truyền thống chỉ còn mang ý nghĩa lịch sử thuần tuý. Đây là một vấn đề rất cần quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, làm công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng giá trị cho sinh viên nói riêng và thanh niên nói chung. Cần phải tạo ra môi trường thực tiễn tích cực để thanh niên có thể tham gia vào quá trình hiện đại hóa những giá trị truyền thống phù hợp với điều kiện phát triển xã hội, có thể vận dụng, phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp, đem lại lợi ích thiết thực cho bản thân và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước.

Đặng Vũ Cảnh Linh, Tạp chí Tâm lý học số 1/2008

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan