Ý THỨC CỘNG ĐỒNG – GIÁ TRỊ QUÝ HIẾM CỦA NGƯỜI VIỆT

         Ý thức cộng đồng từ lâu đã được coi là đặc trưng nổi bật của người Việt Nam. Đọc lại chuyện thần thoại thời dựng nước, chúng ta thấy rất rõ ý thức cộng đồng đã được hình thành sớm như thế nào. Trước khi về biển Lạc Long Quân đã lần lượt diệt trừ Ngư tinh, Hồ tinh và Mộc tinh cứu dân, tạo cơ sở cho việc kết hợp 15 bộ lạc từ đồng bằng đến miền núi thành một cộng đồng thống nhất. Đó là sự mở đầu cho một tư tưởng xuyên suốt lịch sử, tư tưởng đề cao tinh thần đoàn kết, gắn bó và tương thân tương ái.

          Vượt qua những khó khăn, thử thách ở buổi sơ khai dựng nước, người Việt Nam hiền lành, chăm chỉ đã liên kết với nhau để sẵn sàng đối phó với những thử thách mới từ trong quá trình lao động sản xuất. Khác với nhiều cộng đồng hay những dân tộc trên thế giới có phương tiện sinh sống là săn bắt như ở Châu Phi, trồng lúa mạch, nuôi bò sữa ở Đông Âu, du mục ở Mông Cổ, người Việt do hoàn cảnh địa lý và điều kiện thiên nhiên, đã lấy cây lúa nước làm cơ sở duy trì sự ổn định kinh tế. Chính việc sản xuất lúa nước, với những đòi hỏi kỹ thuật khắt khe của nó, đã là cái nôi để hình thành nền văn hoá làng xã. Hình ảnh những cánh đồng lúa vàng đều, trải dọc xa ngút tầm mắt, không chỉ đẹp đẽ, thơ mộng, mà còn chứa đựng bao gian truân và khó nhọc của người lao động. Những đường mương máng, kênh rạch chằng chịt, những bờ đê dài hàng ngàn cây số  bao bọc xóm làng, những vùng rừng núi, đồng bằng hoang vu dần dần trở thành nương rẫy đồng ruộng, chứng tỏ cha ông ta phải “chung lưng đấu cật”, góp sức với nhau như thế nào. Thành quả lao động đạt được không chỉ ở nỗ lực của mỗi cá nhân mà là cả cộng đồng.

          Mọi mối quan hệ làng xóm đều bắt đầu và xoay quanh cây lúa, từ những lúc nhọc nhằn, vất vả đến những lúc hạnh phúc, no ấm. Cây lúa là cội nguồn của niềm vui, nỗi buồn, là hạt nhân của những sự gắn bó, đoàn kết giữa con người với con người, là cơ sở ban đầu của một bản sắc văn hoá. Điều đó cũng dể hiểu tại sao các nhà nghiên cứu và học giả nước ngoài xếp vùng đồng bằng sông Hồng vào một trong 18 nền văn minh cổ xưa của thế giới với cái tên “Văn minh lúa nước”.

Bịt mắt bắt dê – Tranh Đông Hồ

         Nếu như việc trồng lúa nước đòi hỏi phải có sự tham gia góp công, góp sức của cả cộng đồng, phải gắn bó, tương trợ thì cũng chính cái cộng đồng đó lại được củng cố bền chặt thêm do chế độ công điền, công thổ được duy trì từ đời này qua đời khác trên mảnh đất Việt Nam. Mọi người đều biết, khi nghiên cứu về Phương Đông, chính Marx và Engels đã tỏ ra ngạc nhiên về phương thức tổ chức lao động và xã hội theo hình thức này. Trong bức thư Engels gửi cho Marx ngày 6/6/1853, ông đã viết: “Việc không có tư hữu ruộng đất quả thật là cái chìa khoá để hiểu toàn bộ Phương Đông ” (1). Phải chăng đằng sau cái cánh cửa của ý thức đoàn kết cộng đồng chính là một giấc mơ kéo dài từ đời này sang đời khác về sự bình đẳng, không có bóc lột giữa các thành viên trong xã hội. Trên cơ sở ruộng đất công, người Việt Nam mong muốn dựng nên một xã hội không có sự phân tán, chia rẽ, một xã hội không có người giàu và người nghèo mà chỉ có tình cảm đoàn kết, thân ái.

         Trong xã hội Việt Nam truyền thống, Nhà nước dường như chỉ làm nhiệm vụ điều hành hoạt động của cộng đồng và điều hoà những mâu thuẫn. Lịch sử đã cho thấy, ngay cả những tầng lớp vương hầu, vương tôn, quí tộc, hay cả những quan lại, công thần được nhà vua phong đất cũng không có quyền sở hữu ruộng đất như một địa chủ ở Châu Âu. Họ chỉ được thu những phần hoa lợi trên mảnh đất đó theo quy định của Nhà nước. Sử cũ còn chép rằng đến cả vua Trần Dụ Tông (1336-1369) khi không đủ tiền chi phí cho những sinh hoạt cung đình cũng đành phải ra lệnh cho các cung nữ dệt vải, thêu thùa mang ra chợ bán mà chẳng dám đem ruộng đất đi cầm đợ. Chính sách quân điền theo như thời Lê Thánh Tông (1442-1497), cứ ba năm chia lại ruộng một lần cũng chính là mong muốn duy trì quân bình trong xã hội, với hy vọng có thể qua đó đảm bảo tính công bằng dân chủ đối với người dân trong cộng đồng. Mặt khác nó cũng thể hiện sự nghiêm túc của triều đình trong việc tuân thủ những quyền lợi chung.

          Mặc dù chế độ ruộng công và tàn dư công xã cho đến nay đã bị nhiều nhà học giả lên án gay gắt rằng nó không hợp với xã hội hiện đại, tạo ra tư tưởng ỷ lại, kém năng động, bình quân chủ nghĩa trọng sản xuất… rằng nó đã làm triệt tiêu động lực của sự cạnh tranh, phát triển nhưng trên thực tế nó cũng có những mặt tích cực. Chính nó, đã góp phần làm hạn chế những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội, lên án lối sống vị kỷ để mỗi cá nhân gắn bó với cộng đồng, hình thành nên sức mạnh tổng hợp cho người Việt chiến thắng bao khó khăn và thử thách.

          Hầu hết những người nước ngoài đến Việt Nam đều cảm thấy khó lý giải được tại sao sống trong những hoàn cảnh nghèo đói, khó khăn thiếu thốn về mọi mặt song mỗi con người Việt Nam đều không quên nghĩa vụ của mình đối với cộng đồng. Ý thức tôn trọng cộng đồng bao giờ cũng được đặt lên vị trí cao nhất trong thang bậc các giá trị, chuẩn mực.

          Ngay từ nhỏ, người Việt đã được giáo dục về những quan điểm sống gắn bó với cộng đồng. Sống biệt lập trong luỹ tre gia đình, thu mình trong chiếc “vỏ ốc” của mình, thờ ơ trước công việc chung, trong nhiều trường hợp có thể bị coi là tội ác. Nếu như việc tự tiện giết thịt trâu bò bị coi như vi phạm pháp luật về mặt phá hoại sản xuất thì ngay cả việc thờ ơ, không đi cứu giúp những người đang gặp hoạn nạn cũng là phạm tội. Điều 610 Bộ Quốc triều hình luật ghi rõ “Những người thấy lửa bốc cháy nên đi báo mà không báo, nên đi cứu mà không cứu thì chỉ xử nhẹ hơn tội đánh cháy hai bậc ” (2).

          Luật pháp của Nhà nước nghiêm trị rất nặng để răn đe những kẻ vì quyền lợi cá nhân mà cố tình lấn chiếm đất đai, phá hoại đường sá, cầu cống hay những tài sản chung khác của cộng đồng.

          Không chỉ đến “phép vua” mà ngay cả ở các làng xã cũng đặt ra những nguyên tắc để mọi người tuân thủ theo những quyền lợi chung. Mỗi thành viên trong công xã phải có ý thức trách nhiệm bảo vệ những công trình phục vụ sản xuất : đê điều, hệ thống thuỷ lợi, phải tham gia quản lý an ninh, trật tự tuần tra canh gác xung quanh làng, phải đóng góp vào những phong trào chung, xây dựng đình, chùa chiền, trường học …Nếu như ở một số làng có lệ trai gái cưới xin đóng góp gạch xây đường làng hay có người đỗ đạt làm quan phải khao làng thì ý thức cộng đồng trong trường hợp này dường như không chỉ là những nguyên tắc mà đã ăn sâu vào phong tục tập quán, sinh hoạt lễ nghi của người dân.

          Sinh ra trong một môi trường đầy rẫy khó khăn, đe doạ từ thiên nhiên, giặc ngoại xâm và sự nghèo đói, tiếng kêu gọi “đồng bào”  luôn luôn là lời nhắc nhở về sự gắn bó và thương yêu. Ý thức của mỗi con người Việt Nam đối với cộng đồng không chỉ là trách nhiệm, là nghĩa vụ mà còn là những tình cảm thiêng liêng nhất. Trong cuộc sống hàng ngày nó được thể hiện một cách hết sức giản dị. Mặc dù có những lúc hoàn cảnh túng thiếu người ta vẫn sẵn sàng “nhịn miệng đãi khách”. Trong công việc trong nghề nghiệp thì họ thích “làm ăn có hội có phường” để đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Có người gặp khó khăn thì “lá lành đùm lá rách”, “nhường cơm xẻ áo” cho nhau. Tác giả Toan Ánh, người có rất nhiều công trình nghiên cứu về phong tục tập quán ở nông thôn đã viết: “Tinh thần hoà đồng giữa dân làng rất bền chặt và rất nảy nở đến độ đối với nhau luôn có sự thân ái, khoan dung và do đó trong những tổ chức chung người dân quê sẵn sàng gánh vác phần mình được làng giao phó, dù đôi khi có nhận thấy phần gánh vác hơi quá nặng so với mình và hơi chênh lệch so với phần gánh vác của người khác. Họ không cho đấy là sự bất công mà họ nghĩ rằng lần này họ phải gánh vác nhiều lần sau sẽ đến lượt người khác, hoặc giả hơn thế họ nghĩ việc làng là việc chung càng tham gia nhiều sự ích lợi dân làng càng nhiều và đấy là điều an ủi chính đáng” (3).

          Phải chăng với quan niệm sống như vậy ngay cả những lúc đòi hỏi sự hy sinh quên mình vì cộng đồng, người Việt cũng không bao giờ từ chối. Họ sẵn sàng lăn xả vào dòng nước, bất chấp tính mạng mình để cứu những con đê khi bão lũ đến. Còn mỗi khi kẻ thù xâm lấn, dù một tấc đất thì người Việt đâu xá kể đến “biển giáo, rừng gươm”, kiên trì chiến đấu dù chỉ với những manh áo vải chân trần, nón lá và vũ khí thô sơ. Điều đó càng dễ hiểu tại sao người ta có thể chấp nhận “làm quỷ nước Nam” chứ không thèm làm “vương đất Bắc” một cách dễ dàng và bình thản như Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng (1259 -1285).

          Có lẽ chính cái truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, hiên ngang trước quân thù của mỗi con người Việt Nam trải dọc suốt những trang lịch sử oai hùng của dân tộc đều xuất phát từ cuộc sống lao động bình dị, từ những tình cảm cộng đồng gắn bó với xóm làng, quê hương, từ những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người tương thân tương ái. Phẩm chất của mỗi cá nhân đã trở thành phẩm chất chung của cộng đồng, của dân tộc Việt Nam.

Tác phẩm sơn mài vườn xuân Trung Nam Bắc, danh họa Nguyễn Gia Trí

         Boissiere khi nghiên cứu về Việt Nam đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy ngay cả những người nghèo hèn, cùng đinh nhất cũng được tham dự vào công việc của xóm làng và tác giả kết luận “Làng xã An Nam đã cho chúng ta thấy một hình mẫu tuyệt diệu của một chính quyền lập hiến và đại diện của một loại hình dân chủ cực đoan nhất” (4).

       Cái mà Boissiere gọi là “loại hình dân chủ cực đoan nhất” cũng chính là điều khó hiểu đối với những học giả Phương Tây được sinh ra từ một xã hội khác, xã hội của sự phân hoá giai cấp quyết liệt, xã hội vốn tồn tại cả những tư tưởng “cá nhân cực đoan nhất”. Có lẽ vì vậy tác giả chưa hiểu được một cách sâu sắc mối quan hệ của cộng đồng đối với cá nhân của một xã hội cộng đồng như ở Việt Nam.

         Tình cảm “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” ở người Việt Nam đã trở thành truyền thống lâu đời. Tinh thần tương thân tương ái thể hiện ở cả hai mặt. Khi mỗi cá nhân làm tròn trách nhiệm, bổn phận với cộng đồng, có những mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, thì ngược lại cộng đồng cũng tỏ ra quan tâm săn sóc đến cá nhân đó. Quyền lợi cơ bản của mỗi cá nhân là được tham gia sinh hoạt trong cộng đồng từ những lúc vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hoá lễ hội cho đến những lúc làng xóm có việc thì cá nhân đều được đóng góp ý kiến và được tôn trọng. Bản thân mỗi con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu nhưng cũng ít khi họ cảm thấy mình chơ vơ, cô độc. Quan hệ làng xóm xung quanh là môi trường của sự đùm bọc, giúp đỡ, động viên và chia sẻ. Khi có người gặp hoạn nạn, người ta có thể giúp nhau vài buổi lao động chẳng kể gì công xá. Khi một nhà có việc hiếu hỷ hay tang ma thì láng giềng bất kể họ hàng đều xắn tay lao vào giúp đỡ coi như việc của chính mình. Có người đi học, đi thi thì bà con giúp gạo tiền…Những sự giúp đỡ như vậy trong từng hoàn cảnh cụ thể là sao có thể kể hết. Trong tác phẩm Làng xóm Việt Nam, nhà nghiên cứu Toan Ánh đã vẽ ra một bức tranh về sự tương trợ vừa mộc mạc, giản dị lại vừa sinh động:

          “Trong xóm có một người bị cháy nhà ư cả xóm sẽ cùng xô lại cứu chữa, người xách nước, người dọn đồ và có thể nói rằng sự hôi của thật không khi nào xảy ra. Một nhà có con lợn xổng chuồng chạy ra đườc ư ? Lập tức có vài người giúp chủ nhà đón bắt ngay con lợn lại. Một người vô ý bị ngã xuống ao, xuống sông chăng ? Người làng lập tức hè nhau lội xuống vớt, và khi vớt được lên mỗi người một tay cùng nhau lo chữa nạn nhân…Một người nhận được giấy quan đòi, không biết chữ, lập tức có người biết chữ đọc dùm…Một người không may bị oan khuất điều gì, dân làng tìm cách minh oan và nếu không minh oan thì cũng có sự an ủi đương nhân. Một người đi thi, cả làng đều chúc cho may mắn đỗ đạt” (5).

         Ngoài cuộc sống tương trợ hàng ngày nếu mỗi cá nhân có đóng góp cho cộng đồng thì đều được ghi nhớ công lao. Trong những ngày lễ hội người ta tổ chức những đám rước linh đình. Hình ảnh những vị anh hùng dân tộc, những người sáng lập làng, những người học giỏi đỗ đạt làm vẻ vang cho dòng họ, quê hương được tái hiện một cách sinh động. Không chỉ là ôn lại chuyện xưa tích cũ mà người ta còn muốn nhắc nhở với con cháu không bao giờ quên công lao của những người đi trước. Ngay cả những người lao động bình thường có công lưu truyền ngành nghề, những người đóng góp tiền bạc cho việc xây dựng làng, những người hay cứu giúp dân nghèo…cũng được khắc tên vào bia đá, thờ phụng ở những nơi trang trọng nhất. Đó không chỉ là ý thức trách nhiệm đơn thuần mà còn là những tình cảm đền ơn, trả nghĩa của cộng đồng đối với cá nhân.

         Phải chăng chính mối quan hệ cộng đồng tương thân tương ái tình nghĩa đó đã trở thành phẩm chất đầu tiên, phẩm chất cao quý nhất về mặt nhân đạo trong giá trị truyền thống người Việt. Nó cũng là một trong những cơ sở để hình thành nên những phẩm chất khác, góp phần cho người Việt vượt qua những khó khăn thử thách trong suốt quá trình lich sử xây dựng và bảo vệ đất nước.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

(1) C. Mác – F. Ăngghen, (1982), Tuyển tập, Tập 4, NXB Sự thật.

(2) Viện sử học (2017), Quốc Triều hình luật (tái bản), NXB Chính trị quốc gia Sự thật

(3), (5) Toan Ánh (1992),  Nếp cũ làng xóm Việt Nam, NXB TP. HCM

(4) Boissiere (1890), L’Indone avec les Franscoise Pcouis, trang 64 – 65

Hàn Vũ Linh, tháng 6/1995 (in trong cuốn Con người Việt Nam truyền thống – những giá trị đối với sự phát triển, nxb Lao động, 2010)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan