Tóm tắt: Hiện nay, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Tòa án nhân dân tối cao đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo Dự án Luật Tư pháp người chưa thành niên (Dự án Luật) và trình Quốc hội. Trong giai đoạn lấy ý kiến đối với dự thảo lần 2, bài viết này tập trung phân tích một số vấn đề tư pháp vị thành niên đặt ra trong xây dựng Luật, vai trò của tổ chức Đoàn tham gia hoạt động tố tụng và tái hòa nhập cộng đồng được đề cập trong Dự án Luật trên.
Từ khóa: người chưa thành niên, tư pháp người chưa thành niên, hoạt động tố tụng, tái hòa nhập cộng đồng
Từ khi gia nhập Liên hợp quốc, Việt Nam đã chủ động tham gia các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, trở thành quốc gia đầu tiên của Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn, thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989) vào ngày 20/2/1990.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng rất tích cực tham gia ký kết các văn bản pháp lý quốc tế về quyền trẻ em như: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên năm 1985; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên năm 1990 (Hướng dẫn Riyadh), Quy tắc của Liên Hợp Quốc về việc bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do năm 1991.
Những năm Đổi mới, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định người chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng là đối tượng được ưu tiên chăm sóc, giáo dục và bảo vệ, được hỗ trợ tư pháp, đặc biệt điều này đã được thể hiện trong nhiều nghị quyết, văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Theo đó, Hiến pháp và pháp luật nước ta luôn coi trọng quyền của trẻ em. Các quy định luôn được xây dựng dựa trên việc tuân thủ luật pháp, thông lệ quốc tế và đảm bảo phù hợp với tình hình bối cảnh trong nước. Ngay cả khi người chưa thành niên là chủ thể của vi phạm pháp luật, của tội phạm thì việc bảo vệ các quyền và lợi ích cho trẻ em, người chưa thành niên đều được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Điều này đã được thể hiện rõ tại Điều 37, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Việt Nam 2013: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.[1]
Từ định hướng chung của Đảng và Nhà nước, vấn đề tư pháp người chưa thành niên đã được các nhà làm luật, giới khoa học và các tổ chức xã hội quan tâm từ những năm 2000, trong đó trọng tâm là tăng cường nghiên cứu, triển khai các mô hình tố tụng thân thiện, giảm nhẹ hình phạt, xử lý chuyển hướng, tăng cường các hoạt động hỗ trợ tâm lý, giáo dục đối với đối tượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội, tăng cường các hoạt động trợ giúp người chưa thành niên phạm tội cải tạo tích cực và tái hòa nhập cộng đồng…
Mặc dù vậy, đã có rất nhiều nỗ lực trong việc thực hiện các công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tuy nhiên do những khó khăn chủ quan và khách quan, nhiều năm qua, chúng ta vẫn chưa xây dựng, ban hành được một bộ luật riêng về Tư pháp người chưa thành niên, trong khi xử lý vấn đề này chúng ta vẫn phải linh hoạt, dựa trên các Bộ luật và Luật liên quan (16 Bộ luật và Luật) như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Giáo dục, Luật Trẻ em… từ đó cũng chưa có cơ sở pháp lý phát huy được hết sức mạnh, sự tham gia của các tổ chức xã hội (trong đó có tổ chức Đoàn) và cộng đồng trong các hoạt động tố tụng và giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
- Khái lược về vấn đề tư pháp người chưa thành niên trước Dự án Luật
Trong cải cách tư pháp, Bộ Luật Hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017, đã dành riêng Chương XII (dự kiến sẽ bãi bỏ, chuyển sang Dự án Luật mới) đề cập đến những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đối tượng phạm tội phải chịu trách nhiệm theo những quy định của Chương này là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong đó cơ bản chia làm 2 nhóm nhỏ: Nhóm từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và nhóm từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Giữa hai nhóm này có những quy phạm điều chỉnh giống nhau, đồng thời cũng có nhiều quy phạm điều chỉnh khác nhau cho phù hợp với từng nhóm tuổi.
Việc xử lý đối với nhóm chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội được thực hiện dựa trên nguyên tắc cơ bản là đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên; tập trung vào các biện pháp giáo dục chuyển hướng để trẻ nhận ra lỗi lầm và tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội sửa sai. Cụ thể, luật chỉ rõ “phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”[2]. Hình thức phạt tù có thời hạn sẽ chỉ được áp dụng với người dưới 18 tuổi khi các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngửa. Đồng thời, người dưới 18 tuổi sẽ được hưởng mức án nhẹ hơn (thời hạn thích hợp ngắn nhất) so với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương đương[3].
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm: (1) cảnh cáo; (2) phạt tiền; (3) cải tạo không giam giữ; và (4) tù có thời hạn. Trong số đó, chỉ có hình phạt tù có thời hạn là hình phạt giam giữ.
Nhìn chung, so với Bộ luật Hình sự năm 1999, chính sách pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Việt Nam đã có những thay đổi theo hướng khoan hồng, nhân đạo hơn, tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, phù hợp với luật pháp quốc tế, với xu hướng phát triển kinh tế xã hội, phát triển con người, đảm bảo quyền con người, thể hiện tính nhân văn, hướng thiện và chú trọng các giải pháp phòng ngừa. Luật không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người dưới 18 tuổi; đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt tù cao nhất không quá 12 năm; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt tù cao nhất không quá 18 năm tù; trường hợp áp dụng tù có thời hạn thì hình phạt với người dưới 18 tuổi sẽ không quá ¾ mức hình phạt đối so với người đã thành niên…
Cùng với Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2021 cũng dành riêng Chương XXVIII (dự kiến sẽ bãi bỏ, chuyển sang Dự án Luật mới) để trình bày cụ thể những thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi với bảy nguyên tắc “Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi…”
Trên phương diện xử lý vi phạm hành chính, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và Luật sửa đổi bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 cũng quy định cụ thể đối tượng, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính (bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vu phạm, khắc phục hậu quả) và đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong các trường hợp cụ thể. Theo đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính yêu cầu chỉ áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng khi không còn bất kỳ biện pháp nào khác thích hợp hơn, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên.
So với Pháp lệnh trước đây, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng của biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Ví dụ, người chưa thành niên vi phạm pháp luật không có nơi cư trú ổn định có thể bị đưa vào trường giáo dưỡng khi thực hiện một số hành vi quy định, còn nếu do người có nơi cư trú ổn định thực hiện thì chỉ bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Luật Xử lý vi phạm hành chính đã bãi bỏ quy định này, theo đó, người chưa thành niên vi phạm pháp luật không có nơi cư trú ổn định vẫn chỉ bị xử lý bằng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và sẽ được bố trí nơi cư trú tại một cơ sở bảo trợ xã hội trong khi chấp hành biện pháp này.
Cùng với đó trong lĩnh vực tư pháp, năm 2017 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định phòng xử án, xét xử của Tòa gia đình và người chưa thành niên, khác với các phòng xét xử khác, được gọi là Phòng xét xử thân thiện. Cụ thể, người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng được ngồi cạnh người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Điều đó sẽ tác động tâm lý tốt tới người chưa thành niên, không làm họ hoảng sợ. Họ có thể bình tĩnh lắng nghe và hiểu các lỗi lầm của mình, qua đó hiểu được những hành vi gây ra để tự thân chuyển biến, tự cải tạo, nhận thức. Có thể coi đây sẽ là một sự đột phá, nhưng cũng đặt ra rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu.
Như vậy, điểm qua một số Luật cơ bản, trước khi xây dựng dự án Luật Tư pháp dành cho người chưa thành niên, những năm qua Đảng, Nhà nước làm khá tốt công tác chỉ đạo, nghiên cứu, xây dựng và thực thi các chính sách pháp luật về phòng chống vi phạm pháp luật, pham tội người chưa thành niên. Đặc biệt, Nhà nước không chỉ chú trọng việc giáo dục phòng ngừa trẻ khỏi các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội mà còn có biện pháp giáo dục chuyển hướng giúp các em đã vi phạm thay đổi nhận thức, hành vi để không tái phạm, đồng thời xóa án tích cho các đối tượng vi phạm. Các biện pháp xử phạt, xử lý đối tượng vi phạm là người chưa thành niên luôn đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, tạo điều kiện để các em có cơ hội sửa sai, không ảnh hưởng đến giai đoạn phát triển sau này.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chính sách, pháp luật hiện hành của nước ta trong công tác giáo dục, phòng, chống và xử lý vi phạm pháp luật, phạm tội trong nhóm vị thành niên vẫn tồn tại những hạn chế, thể hiện thông qua một số khía cạnh như sau:
Một là Việt Nam chưa có một hệ thống quan điểm cụ thể cũng như chưa có một luật riêng về tư pháp người chưa thành niên (hiện đang xây dựng Dự án Luật để trình Quốc hội thông qua cuối năm 2024). Thay vào đó, vấn đề phòng ngừa, xử lý, giáo dục, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật mới chỉ được quy định rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau… Trừ Luật Trẻ em là đạo luật dành riêng cho trẻ em, những văn bản pháp luật còn lại được áp dụng chung cho người chưa thành niên và có thể có chương riêng hoặc một số điều khoản riêng quy định những biện pháp hoặc thủ tục đặc thù áp dụng đối với nhóm đối tượng chưa thành niên và đối tượng chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Hai là quy định về độ tuổi, hình thức xử lý vi phạm…đối với người chưa thành niên chưa thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, quy định về biện pháp xử lý nhìn chung còn chồng lấn; trình tự, thủ tục giải quyết còn phức tạp và thiếu sự thân thiện đối với người chưa thành niên. Thậm chí, một số trường hợp hành vi vi phạm hành chính có thể bị xử lý nặng hơn xử lý hình sự như: Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng trong xử lý vi phạm hành chính nặng hơn so với hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền; biện pháp giám sát, giáo dục khiển trách; hòa giải tại cộng đồng trong xử lý hình sự.
Ba là nhiều quy định của pháp luật về tư pháp người chưa thành niên còn lạc hậu, hạn chế, chưa bao quát được các quy định pháp luật quốc tế cũng như các hiện tượng lệch chuẩn đang xảy ra và có nguy cơ xảy ra đối với vị thành niên ở Việt Nam. Điển hình như hệ thống các hình phạt đưa ra còn hạn chế so với quốc tế. Cụ thể, Việt Nam mới chỉ dừng lại ở 04 loại hình phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn), trong khi theo thông lệ quốc tế thì hình phạt có tính điển hình thường gồm 15 biện pháp như: Cảnh báo; Thả có điều kiện; Hoàn trả, bồi thường; Phạt tiền; Lao động công ích; Điều kiện về hành vi; Hướng dẫn và cố vấn; Yêu cầu tư vấn/điều trị; Chương trình giáo dục, đào tạo hoặc phục hồi; Quản chế (giám sát tại cộng đồng với các điều kiện về hành vi và chương trình giáo dục); Án treo hoặc án có điều kiện; Trung tâm báo cáo thường xuyên; Giam giữ tại gia; Trường giáo dưỡng; Phạt tù.
Bốn là hệ thống chính sách, pháp luật chưa đảm bảo phát huy được sự phối hợp đồng bộ và xuyên suốt giữa gia đình, cơ sở giáo dục, địa phương và các cơ quan chuyên trách trong việc giáo dục, phòng ngừa nguy cơ, xử lý và xử lý chuyển hướng các hành vi vi phạm của vị thành niên, đặc biệt tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa hay những địa phương có tình hình an ninh nhạy cảm.
Năm là các biện pháp xử lý chuyển hướng còn ít và mang tính hình thức; chưa có quy định về xử lý vi phạm trong quá trình thi hành các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính hay biện pháp giám sát, giáo dục khi được miễn trách nhiệm hình sự… Các quy định về hỗ trợ, tạo điều kiện cho người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng chưa đa dạng, chưa phát huy được hiệu quả trên thực tiễn. Dẫn đến kết quả đạt được chưa cao. Nhiều trẻ vi phạm pháp luật sau khi chấp hành các biện pháp xử phạt, xử lý khó có thể trở lại hòa nhập với cộng đồng, còn chịu nhiều định kiến của xã hội, dễ quay trở lại việc thực hiện các hành vi vi phạm.
Sáu là chưa xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm, nguồn lực cụ thể của các tổ chức xã hội (trong đó có tổ chức Đoàn) tham gia các hoạt động tố tụng và hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng
- Vai trò tham gia của Đoàn thanh niên thực tế và trong dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, với vai trò là tổ chức chính trị – xã hội của thanh thiếu niên, là tiếng nói đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng và sự phát triển của thanh thiếu niên. Mặc dù trước dự án Luật, ngoại trừ điều 75 Luật Trẻ em, tất cả các Bộ luật, luật liên quan đến vấn đề tư pháp vị thành niên đều không xác định “đích danh” vị trí, vai trò của tổ chức Đoàn trong luật (hoạt động tố tụng và giúp đỡ người chưa thành niên vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng), tuy nhiên với chức năng, nhiệm vụ của mình, nhiều năm qua Đoàn Thanh niên đã chủ động, tích cực tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Từ năm 2001 đến nay, Tổ chức Đoàn luôn chủ động xây dựng các Quy chế phối hợp với các cơ quan, ban ngành trong vấn đề tư pháp người chưa thành niên nhằm phối hợp triển khai các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phòng ngừa, phòng ngừa từ xa tội phạm trong thanh thiếu niên, hỗ trợ các nhóm thanh thiếu niên vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng…
Tiêu biểu như: Nghị quyết liên tịch số 03/2010/NQLT-BCATWĐ ngày 24/6/2010 với Bộ Công an về “Phối hợp hành động phòng, chống ma túy trong thanh thiếu niên giai đoạn 2010-2015”; Kế hoạch phối hợp số 61-KHLT/BCĐ-BCA-TWĐ về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết liên tịch 03/2010/NQLT về “Phối hợp hành động phòng, chống ma túy trong thanh thiếu niên”; Kế hoạch liên tịch 9330/KHPH ngày 1/11/2011 giữa Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam và Bộ Công an về việc “Phối hợp hoạt động giáo dục phạm nhân, trại viên trong độ tuổi thanh niên và giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng, giai đoạn 2011-2015”; Kế hoạch phối hợp Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và Cục C10, Bộ Công an giai đoạn 2016 – 2020, giai đoạn 2021 – 2025 trên cơ sở nội dung Kế hoạch 9330. Chương trình là hoạt động cụ thể hóa công tác phối hợp giáo dục, cải tạo, giúp đỡ phạm nhân, trại viên trong độ tuổi thanh thiếu niên tái hòa nhập cộng đồng giai đoạn 2021-2025 giữa Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và Bộ Công an.…
Bên cạnh đó, tổ chức Đoàn tổ chức nhiều hoạt động trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên nói chung và thanh thiếu niên “chậm tiến”, vi phạm pháp luật nói riêng, góp phần hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống, hành vi ứng xử phù hợp với pháp luật cho thanh thiếu niên, tạo nếp sống, hành động và văn hóa “sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật” trong thanh thiếu niên.
Cùng với những hoạt động thực tiễn tích cực, thường xuyên, tổ chức Đoàn cũng đã xây dựng, triển khai nhiều mô hình hiệu quả trong phòng chống, hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội như: Chương trình “Thắp sáng ước mơ hoàn lương”, Hội thi “Tìm hiểu kiến thức về Phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội”; mô hình câu lạc bộ, đội, nhóm “Đồng đẳng”, “Bạn giúp bạn” giữa các nhóm người chưa thành niên vi phạm pháp luật (Đây là mô hình triển khai để giúp cho các đối tượng vi phạm pháp luật về ma túy, các đối tượng chấp hành án phạt tù trở về địa phương, các đối tượng thanh thiếu niên hư có nguy cơ phạm tội)…
Một số mô hình, câu lạc bộ vừa hỗ trợ các nhóm thanh thiếu niên đặc thù vừa tích cực lồng ghép tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật trên diện rộng tuyên truyền tiêu biểu như Câu lạc bộ “Thắp sáng niềm tin”, mô hình “Hòm thư tố giác”, mô hình “Phiên tòa giả định”, câu lạc bộ như Câu lạc bộ Bình Minh tại Đà Nẵng, Câu lạc bộ Giới trẻ tại Ninh Bình, Câu lạc bộ Sức sống trẻ tại Đồng Tháp, Câu lạc bộ Vì ngày mai tươi sáng tại Bình Phước…
Cuối cùng, Đoàn luôn phối hợp với chính quyền, các đoàn thể làm tốt công tác thanh niên, chăm lo xây dựng Đoàn, tích cực xây dựng cơ sở Đoàn, Hội, Đội, phát huy sáng kiến trong đổi mới nội dung, hình thức hoạt động Đoàn trong nhà trường (Mô hình sinh hoạt dưới cờ, Mô hình tham vấn tâm lý học đường…) ở địa bàn dân cư, tích cực tham gia hỗ trợ thanh niên chậm tiến, có nguy cơ và hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, việc xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của tổ chức Đoàn trong Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học, thực tiễn và pháp lý. Trong dự thảo lần 2 cũng đã xác định trách nhiệm tổ chức Đoàn trong hoạt động tố tụng và hoạt động hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng dưới 2 hình thức trực tiếp và gián tiếp. Ở hình thức trực tiếp dự án Luật ghi rõ trách nhiệm Đoàn Thanh niên. Ở hình thức gián tiếp dự án Luật ghi trách nhiệm các tổ chức thành viên Mặt trận, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp…
Đối với hoạt động tố tụng, trách nhiệm của tổ chức Đoàn Thanh niên được ghi trong dự thảo luật tại Điều 25 khoản 2, Điều 29 khoản 2, Điều 30 khoản 2, Điều 125 khoản 1 bao gồm các trách nhiệm tham gia xác định tuổi người chưa thành niên, tham gia hội thẩm nhân dân xét xử sơ thẩm, tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, tham gia thu thập chứng cơ độc lập và trình bày quan điểm.
Đối với hoạt động hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng, trách nhiệm của tổ chức Đoàn Thanh niên được ghi gián tiếp trong dự thảo luật, tuy nhiên được xác định trong tất cả các điều luật thuộc mục này từ Điều 166 đến Điều 171 gồm các nội dung hỗ trợ người chưa thành niên sau khi trả tự do, hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập tại cộng đồng, trợ giúp về tâm lý, đào tạo nghề, tạo việc làm, tư vấn giải quyết khó khăn, tạo điều kiện để người chưa thành niên học tập, lao động, tham gia hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, bồi dưỡng đạo đức, ý thức công dân cho người chưa thành niên…
- Một số góp ý với dự thảo luật về vai trò tổ chức Đoàn tham gia tố tụng và hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng
Việc xác định rõ vị trí, vai trò trách nhiệm của Đoàn Thanh niên tham gia tố tụng và hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng đảm bảo hướng đến “tính thân thiện” trong hoạt động tố tụng người chưa thành niên, thúc đẩy các giải pháp xử lý chuyển hướng, phát huy thế mạnh, sáng kiến và mô hình thực tiễn của tổ chức Đoàn trong hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội tái hòa nhập cộng đồng những năm qua. Tuy nhiên để Luật có thể triển khai hiệu quả trong thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc làm rõ thêm các điểm sau trong Dự thảo Luật:
- Về việc tham gia tố tụng, tại Điều 125 khoản 1 quy định tổ chức Đoàn có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Cần có quy định rõ trong Dự thảo Luật trong trường hợp nào Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án “ra Quyết định” có sự tham gia của tổ chức Đoàn và trường hợp nào “không ra Quyết định”.
- Về tư cách tham gia, tổ chức Đoàn tham gia tố tụng, tại Điều 125, tổ chức Đoàn được hiểu là một trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Về điểm này cần phải căn cứ Điều lệ Đoàn, với quy định Đoàn viên từ 15 tuổi trở lên. Với các nhóm trẻ em dưới 15 tuổi, không phải Đoàn viên, không phải đối tượng học sinh, chịu sự quản lý của tổ chức Đoàn, Đội, Hội…tổ chức Đoàn sẽ khó có thể thực hiện vai trò là người đại diện lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên (trừ khi đương sự tự nguyện đề nghị).
- Về thời điểm tham gia, Luật cần xác định cụ thể việc tham gia của tổ chức Đoàn (nếu có) là thời điểm điều tra hay sau quyết định khởi tố vụ án, truy tốt, xét xử. Các công việc tham gia cũng cần được xác định cụ thể trong từng công đoạn tố tụng như tư vấn, trợ giúp pháp lý từ khi người chưa thành niên bị bắt tạm giam hay tham gia trong quá trình hỏi cung, làm chứng, tham gia quá trình xét xử, điều tra thu thập chứng cứ, tranh luận, nếu ý kiến tư vấn tại Tòa…
- Cần xác định rõ, cụ thể hơn công việc chuyên môn của người tham gia tố tụng. Điều 29 khoản 2 quy định cán bộ Đoàn, có thể ưu tiên được chọn tham gia Hội thẩm nhân dân là “người kinh nghiệm, kiến thức về tâm lý người chưa thành niên”. Về nội dung “kinh nghiệm” và “kiến thức” cần được xác định cụ thể thông qua tiêu chí bằng cấp, chứng chỉ, nhiệm vụ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, năm công tác có liên quan đến nghiệp vụ hỗ trợ người chưa thành niên hay không. Việc tham gia Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ có ảnh hưởng đến công tác các bộ, luân chuyển cán bộ của tổ chức Đoàn hay không.
- Cần xác định rõ thẩm quyền và phù hợp, Điều 125 khoản 2 quy định “Những người tham gia tố tụng có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; phát biểu ý kiến, tranh luận”. Vậy cần xác định việc “đưa ra chứng cứ” , “tranh luận” của người tham gia tố tụng (trong trường hợp là tổ chức Đoàn) có được điều tra độc lập, thu thập chứng cớ hay không, quyền hạn đến đâu và cơ chế thế nào nếu xảy ra tình huống hoạt động điều tra thu thập chứng cứ bị cản trở…Bên cạnh đó, công tác thu thập “chứng cứ” có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Tổ chức Đoàn hay không hay phải điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn theo Luật…
- Đối với các hoạt động hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng từ Điều 166 đến Điều 171, còn quy định chung chung, chưa xác định rõ trách nhiệm tổ chức Đoàn trong khi thực tế tổ chức Đoàn luôn chủ động, tích cực thực hiện nhiều mô hình hiệu quả trong việc trợ giúp người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng, đặc biệt trong các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý, tuyên truyền giáo dục pháp luật, hỗ trợ tâm lý, giáo dục, đào tạo nghề và tạo việc làm cho thanh thiếu niên nói chung và thanh thiếu niên chậm tiến, vi phạm pháp luật nói riêng.
- Đối với các chủ trương huy động sự tham gia, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội (trong đó có tổ chức Đoàn) trong Dự án Luật, cần có thêm Điều Luật về việc tăng cường các hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ của các tổ chức tham gia tố tụng, hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, tái hòa nhập cộng đồng. Cần có thêm điều Luật về khen thưởng, xử phạt để khuyến khích các tổ chức xã hội nói chung và tổ chức Đoàn nói riêng trong việc phát huy sáng kiến, tích cực tham gia, thực hiện tố tụng và hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, tái hòa nhập cộng đồng.
So với dự thảo lần 1 thì dự thảo Luật Tư pháp Người chưa thành niên cũng đã có nhiều bổ sung, điều chỉnh tích cực, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trển cơ sở tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức xã hội như tổ chức Đoàn tham gia các hoạt động tố tụng, đặc biệt là hoạt động hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
- Báo cáo chính trị tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI, XII
- Bộ Tư pháp, UNICEF (2019), Báo cáo nghiên cứu “Pháp luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam
- Hội LHTN Việt Nam (2020), Báo cáo Tổng kết thực hiện Kế hoạch số 9330/KHPH giai đoạn 2016-2020 và nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2020-2025
- Trần Thị Thu Ngân (2021), Đề tài cấp Viện “Nghiên cứu các hình thức hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong giáo dục, giúp đỡ, cảm hóa thanh thiếu niên chậm tiến trên địa bàn dân cư.
- Tòa án nhân dân tối cao (2022), Báo cáo tóm tắt Tổng kết công tác năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2022 của các tòa án
6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx
7. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Trach-nhiem-hinh-su/Bo-luat-hinh-su-2015-296661.aspx
8 Theo khoản 1,3,5,6.7 điều 91 Chương XII Bộ luật hình sự năm 2015.
Đặng Vũ Cảnh Linh, tham luận trình bày tại Hội thảo góp ý Dự án Luật tư pháp dành cho người chưa thành niên lần 2, Trung ương Đoàn, 2024
