VÀI NÉT VỀ LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ TRONG VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN KIẾN THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
- Vài nét về Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt nam (Liên hiệp Hội Việt Nam – VUSTA) được thành lập theo Quyết định số 121/HĐBT ngày 29/7/1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Các hội thành viên của Liên hiệp Hội Việt Nam hoạt động theo điều lệ hoặc quy chế của hội mình, có quyền tự chủ, tự quản rộng rãi trong mọi hoạt động, nhưng phải tôn trọng điều lệ của Liên hiệp Hội Việt Nam và chịu sự chỉ đạo và kiểm tra của Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam.
Liên hiệp Hội Việt Nam có chức năng chính sau đây:
– Tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong nước, trí thức khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài, điều hoà, phối hợp hoạt động của các hội thành viên.
– Làm đầu mối giữa các hội thành viên và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong hoạt động hội.
– Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội thành viên, của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị xã hội các cấp đã quan tâm và tập trung triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân. Liên hiệp Hội Việt Nam cũng đã làm tốt công tác vận động trí thức khoa học công nghệ tham gia đẩy mạnh các hoạt động, tuyên truyền và phổ biến kiến thức, tư vấn, phản biện và giám định xã hội, nghiên cứu khoa học, phong trào lao động sáng tạo, hợp tác quốc tế….có nhiều đóng góp ngày càng thiết thực và hiệu quả và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Cơ sở pháp lý của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong việc tổ chức hoạt động thông tin, truyền thông, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ
Nhận thức được vai trò, sứ mệnh, chức năng, nhiệm vụ và tầm quan trọng của Liên hiệp Hội Việt Nam trong công tác đoàn kết, tập hợp trí thức khoa học và công nghệ, từ lâu nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chỉ đạo công tác tổ chức, phát triển Liên hiệp Hội Việt Nam, xây dựng các cơ sở pháp lý cần thiết, tạo điều kiện để để Liên hiệp Hội Việt Nam phát huy được tốt vai trò của mình, đặc biệt là các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ cho nhân dân.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất của Hội Phổ biến Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam năm 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng của trí thức, các nhà khoa học trong công tác phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ. Tại hội nghị, Người nói “Các cô, các chú phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt”.
Có thể thấy ngay từ rất sớm, trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, chưa hòa bình, thống nhất, cách mạng Việt Nam vẫn phải thực hiện song hành hai nhiệm vụ vừa thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam, vừa phải xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt vai trò của khoa học và công nghệ, của đội ngũ trí thức, của công tác truyền bá tri thức khoa học và công nghệ phục vụ đời sống sản xuất nhân dân, phát triển kinh tế xã hội. Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa mang tính minh triết, thể hiện ở tầm vĩ mô, chiến lược, chính sách dài hạn vừa mang tính cụ thể, thiết thực, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, ban hành các văn bản pháp lý của Đảng và Nhà nước đối với tổ chức Liên hiệp Hội Việt Nam sau này.
Từ những năm sau Đổi mới, kế thừa tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, coi đây là vấn đề quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ và vai trò của Liên hiệp Hội Việt Nam đã được khẳng định trong hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, cụ thể như sau:
– Thông báo số 37-TB/TW ngày 20/11/1992 của Ban Bí thư về tổ chức và hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam khẳng định những đóng góp thiết thực của các nhà khoa học trong hoạt động phổ biến kiến thức, góp phần đưa tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và đời sống của nhân dân, đó là “Liên hiệp hội và nhiều hội chuyên ngành và hội địa phương đã có những hoạt động thiết thực trong việc đoàn kết và vận động đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ tích cực tham gia thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; góp phần phổ biến và ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và đời sống”.
– Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 16/6/1996 của BCH Trung ương Đảng khoá VIII về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã xác định rõ quan điểm chỉ đạo là “Củng cố và tǎng cường hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng trí thức. Phát huy vai trò chính trị – xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật ở Trung ương và địa phương trong việc phổ biến và ứng dụng kiến thức khoa học vào sản xuất và đời sống, trong nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và bảo vệ môi trường, cũng như trong công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật”.
– Ngày 11/4/1988, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, tiếp tục khẳng định vai trò, mục tiêu quan trọng của Liên hiệp Hội Việt Nam trong hoạt động phổ biến kiến thức, giao nhiệm vụ cho các đoàn thể chính trị – xã hội có trách nhiệm phối hợp cùng với Liên hiệp Hội Việt Nam để triển khai hoạt động này nhằm đưa nhanh các tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và đời sống: “Tổng Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức quần chúng khác cần phối hợp chặt chẽ với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong các hoạt động phổ biến kiến thức và vận động quần chúng ứng dụng và đưa nhanh các tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và đời sống”.
– Thông báo số 163-TB/TW ngày 21/8/1998 của Thường vụ Bộ Chính trị về Đại hội IV Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhấn mạnh: “Đặc biệt Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cần làm tốt chức năng tập hợp, đoàn kết, thống nhất đội ngũ trí thức khoa học, kỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn mới của cách mạng; phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ, thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ”.
– Năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 11/11/1998 về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trong đó yêu cầu Liên hiệp Hội Việt Nam phải đẩy mạnh hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ, đồng thời khẳng định Nhà nước sẽ hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để Liên hiệp Hội ở Trung ương và địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ này. Chỉ thị nêu rõ “… đẩy mạnh các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ, thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ” và “Liên hiệp hội ở Trung ương và địa phương được Nhà nước hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để có thể đóng góp thiết thực vào việc đào tạo, nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, tư vấn, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, dịch vụ khoa học – công nghệ nhằm phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tạo thêm nguồn kinh phí cho hoạt động của Liên hiệp hội và các hội thành viên”.
– Thông báo số 145-TB/TW ngày 09/7/2004 nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW, trong đó nhấn mạnh đến mục tiêu và đối tượng của hoạt động phổ biến kiến thức, cũng như khẳng định các điều kiện để hỗ trợ Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, đó là: “Đẩy mạnh các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ cho nhân dân, nhất là đối với nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa” và “… tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện về cán bộ, kinh phí, phương tiện làm việc để Liên hiệp hội ở Trung ương và địa phương hoạt động đạt hiệu quả; ban hành cơ chế, chính sách cần thiết để tạo thuận lợi cho Liên hiệp hội phát triển tổ chức và nâng cao chất lượng các hoạt động của Liên hiệp hội, tham gia có hiệu quả vào các nhiệm vụ đào tạo, phổ biến kiến thức, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, bảo vệ môi trường…”.
– Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 của BCH Trung ương khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, BCH Trung ương đã nhấn mạnh đến hoạt động truyền bá tri thức của các nhà khoa học trong cộng đồng nhằm giúp cộng đồng áp dụng có hiệu quả tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao dân trí. Nghị quyết đã chỉ rõ: “Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí”.
– Chỉ thị số 42-CT/TW (ngày 16/4/2010) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó chỉ đạo Liên hiệp Hội Việt Nam cần phải đi đầu trong hoạt động phổ biến kiến thức và chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, ban hành Luật phổ biến kiến thức nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ của Liên hiệp Hội Việt Nam. Chị thị đã nêu rõ: “Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam: Đi đầu trong truyền bá kiến thức khoa học và công nghệ” và “Tiếp tục thể chế hoá, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam: Nghiên cứu, ban hành Luật phổ biến kiến thức”.
– Thông báo số 353-TB/TW ngày 25/6/2010 về việc xác định các đề án triển khai thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị (khoá X) và giao trực tiếp nhiệm vụ chỉ đạo việc xây dựng Luật phổ biến kiến thức cho Ban cán sự Đảng Chính phủ: “Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật phổ biến kiến thức và dự thảo Luật hành nghề kỹ sư chuyên nghiệp để trình Quốc hội đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII”.
– Hướng dẫn số 106-HD/TGTW (ngày 25/5/2010) của Ban Tuyên giáo trung ương về triển khai thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị (khoá X) và yêu cầu: “Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng chính phủ nghiên cứu để ban hành Luật phổ biến kiến thức; Luật hành nghề kỹ sư chuyên nghiệp…”.
– Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi năm 2013 có nêu rõ: “Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hằng năm, 05 năm về công tác truyền thông, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ”.
Như vậy có thể thấy từ khi thành lập đến nay, đã có hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Liên hiệp Hội Việt Nam đối với công tác tổ chức phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ, với mục tiêu truyền bá tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến vào phục vụ sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
MỘT SÔ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Trải qua hơn 30 năm hoạt động và phát triển, với 7 nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc, Liên hiệp Hội Việt Nam luôn coi hoạt động thông tin, truyền thông, phổ biến kiến thức là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu, là thế mạnh của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, có ý nghĩa quyết định trong sự vận hành và phát triển của hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam và đóng góp ngày càng nhiều hơn cho quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Mười năm gần đây, nhằm cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, trong những năm qua cơ quan trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam cũng đã không ngừng nghiên cứu và ban hành nhiều văn bản thể hiện các chủ trương, quan điểm chỉ đạo hướng tới các chương trình phát triển các hoạt động phổ biến kiến thức đối với các hội thành viên, các đơn vị trực thuộc trong toàn hệ thống.

Trước hết hoạt động phổ biến kiến thức luôn được nhấn mạnh trong Điều lệ Liên hiệp Hội Việt Nam trong mỗi kỳ đại hội:
- Điều lệ nhiệm kỳ V:”Liên hiệp hội Việt Nam có các nhiệm vụ sau đây:…phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ trong nhân dân; tổ chức và hướng dẫn phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học và công nghệ.”
- Điều lệ nhiệm kỳ VI:”Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam có các nhiệm vụ sau đây:…Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ… Phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ trong nhân dân,,,,góp phần xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.”
Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo, điều hành của Liên hiệp Hội Việt Nam còn được thể hiện trong hàng loạt các văn bản và chương trình sau:
– Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng đoàn Liên hiệp Hội Việt Nam đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động số 1900 CT/LHH ngày 25/12/2008, xác định cần thiết phải kiến nghị Quốc hội ban hành Luật phổ biến kiến thức: “Đối với Quốc hội: Kiến nghị xây dựng luật phổ biến kiến thức trong nhân dân”, đồng thời định hướng chỉ đạo phương thức tiến hành đẩy mạnh hoạt động phổ biến kiến thức trong nhân dân: “Đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản thuộc Liên hiệp Hội Việt Nam và các hội thành viên, đánh giá hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức thông qua các phương tiện thông tin, truyền thông. Tổ chức hội nghị báo chí để trao đổi kinh nghiệm, định hướng hoạt động, xây dựng mạng lưới và cách thức quản lý”.
– Để triển khai thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Bộ Chính trị, Đảng đoàn Liên hiệp Hội Việt Nam đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động số 05-CT/ĐĐLHH ngày 09/8/2010 nhằm định hướng tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp Hội Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với nhiều nội dung liên quan đến hoạt động phổ biến kiến thức như: “Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động: Đi đầu trong phổ biến kiến thức KH&CN, áp dụng có hiệu quả các tiến bộ KH&CN vào cuộc sống, kịp thời tôn vinh các cá nhân có sáng tạo trong hoạt động KH&CN. Chủ động tham gia dự thảo Luật phổ biến kiến thức…”; và “Những đề án cần triển khai thực hiện: Xây dựng đề án về phổ biến kiến thức trong nhân dân, tổ chức phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học”.
– Chiến lược phát triển Liên hiệp Hội Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 đã nêu rõ quan điểm phát triển Liên hiệp Hội Việt Nam: “Liên hiệp Hội Việt Nam … có trách nhiệm lớn trong việc phát triển, bồi dưỡng nhằm sử dụng tốt đội ngũ trí thức; thường xuyên nâng cao năng lực, thực hiện tốt các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, phổ biến kiến thức, nâng cao dân trí, xã hội hóa trong các lĩnh vực KH&CN, GD&ĐT, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe nhân dân và thực hiện các dịch vụ công”. Mục tiêu thứ 3 của Chiến lược phát triển Liên hiệp Hội Việt Nam đề cao mục tiêu, đối tượng và phương thức của hoạt động phổ biến kiến thức là: “Liên hiệp Hội Việt Nam … là đầu mối quan trọng trong việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật phổ thông cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cho đồng bào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; cung cấp cho xã hội nhiều ấn phẩm thông tin khoa học và công nghệ, tri thức tinh hoa của nhân loại”.
– Đoàn Chủ tịch Hội đồng trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển Liên hiệp Hội Việt Nam giai đoạn 2011-2015 (kèm theo Quyết định số 625/QĐ-LHHVN ngày 12/10/2011), vạch rõ nhiệm vụ và sản phẩm của hoạt động phổ biến kiến thức, trong đó hướng tới khung chính sách cụ thể của nhà nước là đề nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định của Thủ tướng về chương trình phổ biến kiến thức trong nhân dân, trong đó Liên hiệp Hội Việt Nam đóng vai trò chủ trì nhằm tạo điều kiện để Liên hiệp Hội Việt Nam và các hội thành viên, các đơn vị trực thuộc có thêm cơ sở pháp lý và nguồn lực tổ chức thực hiện tốt và hiệu quả nhiệm vụ phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ: “Nhiệm vụ 1.8: Xây dựng đề án Phổ biến kiến thức trong nhân dân. Sản phẩm là quyết định của Thủ tướng về chương trình phổ biến kiến thức trong nhân dân, trong đó Liên hiệp Hội Việt Nam đóng vai trò chủ trì”, và “Nhiệm vụ 4.5: Đẩy mạnh hoạt động phổ biến kiến thức. Sản phẩm là các tài liệu như sách, báo, tạp chí, bản tin, tài liệu tham khảo, kỷ yếu, tờ rơi về KH&CN, giáo dục và đào tạo, y tế… phục vụ công tác phổ biến kiến thức được biên soạn, xuất bản và phát hành; các website về khoa học công nghệ được lập mới, duy trì, phát triển mạnh mẽ”.
Trong tất cả các văn bản của Liên hiệp Hội Việt Nam từ nhiều năm qua được Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội đồng Trung ương, Đoàn Chủ tịch và Đảng đoàn Liên hiệp Hội Việt Nam thông qua và ban hành như đã nêu trên đều chứa đựng những nội dung chỉ đạo sâu sát, nhất quán về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức thực hiện hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ.
Khắc phục tình trạng thiếu tri thức, thông tin khoa học và công nghệ là khá phổ biến dẫn đến hạn chế trong sản xuất kinh doanh và đời sống, đặc biệt là chưa áp dụng được nhiều kiến thức khoa học và công nghệ để cải thiện môi trường và năng suất lao động, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển, Liên hiệp Hội Việt Nam và các tổ chức thành viên trong những năm qua đã xác định và tập trung chương trình thông tin, truyền thông và phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ vào những điểm chính sau:
Mục tiêu chung: Phổ biến kiến thức KH&CN nhằm giới thiệu các kiến thức, thành tựu KH&CN mới của Việt Nam và thế giới, đưa các tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào áp dụng trong sản xuất và đời sống, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ trong mọi lĩnh vực và thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Đối tượng: Phổ biến kiến thức KH&CN áp dụng trên diện rộng, tác động mọi tầng lớp người dân trong xã hội, trong đó các chương trình ưu tiên hướng đến người dân, cộng đồng ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Các lĩnh chủ yếu: Nông nghiệp và phát triển nông thôn; công nghiệp, giao thông, xây dựng; y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; giáo dục, bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu, văn hóa, xã hội, tuyên truyền và phổ biến chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Hình thức thực hiện:
Đoàn kết, tập hợp, huy động các nhà khoa học chuyên ngành và liên ngành, hỗ trợ các nhà khoa học, chuyên gia thực hiện các nhiệm vụ phổ biến kiến thức biểu hiện qua các hoạt động:
– Tổ chức biên soạn, xuất bản và phát hành các ấn phẩm phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ của hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam như: sách giáo khoa, sách tham khảo, sách hướng dẫn, các loại báo, tạp chí, bản tin, tài liệu, tờ rơi, tổ chức sản xuất, xuất bản các chương trình phát thanh và truyền hình, các ấn phẩm, chuyên mục trên báo chí, mạng xã hội…

– Tổ chức khóa đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức KH&CN cho hội viên và người dân theo các chủ đề khác nhau
– Tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học phổ biến kiến thức, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho người dân; tham quan, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt…
– Triển khai các dự án nâng cao năng lực, kỹ thuật cho cộng đồng, cải thiện sinh kế cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
– Tổ chức các cuộc thi sáng tạo KH&CN từ cấp tỉnh đến cấp quốc gia nhằm phát hiện, khuyến khích, tôn vinh và tuyên truyền, phổ biến các giải pháp sáng tạo KH&CN, các gương điển hình hoạt động KH&CN trong quần chúng nhân dân.
– Các hình thức khác: Tổ chức các câu lạc bộ sinh hoạt chuyên đề; triển lãm trưng bày và giới thiệu các sản phẩm KH&CN; trao đổi, tọa đàm, xây dựng phim tư liệu về KH&CN phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương, tổ chức các diễn đàn trí thức chuyên nghiệp…
Nguồn lực thực hiện:
– Đóng góp bằng chất xám, tri thức, trách nhiệm và sự tâm huyết của các nhà khoa học để truyền bá tri thức trong nhân dân.
– Kinh phí từ việc khai thác, thu hút viện trợ, tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ quốc tế, các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước.
– Kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ các hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ công
– Kinh phí từ việc phát hành các xuất bản phẩm.
– Kinh phí từ các nguồn hợp pháp khác.
Danh mục tài liệu tham khảo
- Đặng Vũ Cảnh Linh (2014) Hoạt động Phổ biến kiến thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Báo cáo phục vụ Báo cáo số 393/BC-LHHVN ngày 27/5/2014 của Liên hiệp Hội Việt Nam về Tình hình hoạt động của Liên hiệp Hội Việt Nam trong thời gian qua)
- Đặng Vũ Cảnh Linh, Tô Bá Trọng (2013) Hoạt động thông tin và phổ biến kiến thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ( Báo cáo chuyên đề phục vụ hoạt động kỷ niệm 30 năm thành lập Liên hiệp Hội Việt Nam).
- Đặng Vũ Cảnh Linh (2014), Thực trạng hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam giai đoạn 2010-2014, đề xuất định hướng hoạt động trong thời gian tới (Báo cáo chuyên đề Phục vụ văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam)
- Đặng Vũ Cảnh Linh (2017), Một số kinh nghiệm về hoạt động thông tin, phổ biến kiến của Liên hiệp Hội Việt Nam từ khi thành lập đến nay thuộc nhiệm vụ Trên cơ sở bài học kinh nghiệm sau 30 năm hoạt động đề xuất hướng phát triển của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong thời gian tới.
Đặng Vũ Cảnh Linh, Chuyên đề tổng kết hoạt động phổ biến kiến thức của Liên hiệp hội Việt Nam 2018
