Bên cạnh việc xây dựng những giá trị văn hóa quý báu về biển, chúng ta cũng còn bộc lộ không ít những hạn chế trong nhận thức và tư duy văn hóa về biển. Điều đó đã khiến cho chúng ta, trong nhiều thời điểm của lịch sử đã không khai thác được hết sức mạnh của một quốc gia có tiềm lực mạnh mẽ về biển.
Chúng tôi cố gắng tìm một khái niệm để chỉ những nét đặc trưng cho văn hóa biển của người Việt, văn hóa của một vùng sinh thái mà cư dân ở đó vừa sống về khai thác những tài nguyên biển vừa sống bằng nông nghiệp (mà về cơ bản trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp còn mang tính chủ đạo nữa). Ở đây, chúng tôi tạm hài lòng với khái niệm “văn hóa biển mang tính tiểu nông”.

Là một quốc gia có truyền thống lâu đời về những đặc điểm nông dân, nông nghiệp, nông thôn, mặc dù hết sức tôn trọng biển, nhưng văn hóa người Việt ở khu vực này về cơ bản vẫn là văn hóa nông nghiệp – mà ở đây là văn hóa tiểu nông, tức là nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nhưng lại luôn là thứ nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, tự cấp tự túc.
Trong xã hội truyền thống, văn hóa tiểu nông, nông nghiệp đã tồn tại trong các cộng đồng làng xã, bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Ở bối cảnh chung đó, văn hóa vùng biển đã lưu giữ lại toàn bộ những nền tảng cơ bản của văn hóa nông nghiệp. Tính chất tự cấp, tự túc và khép kín của các làng biển xưa luôn đòi hỏi cư dân tại đây vẫn phải đảm bảo được cuộc sống hàng ngày của mình mà không cần tới sự can thiệp từ bên ngoài. Bởi vậy, bên cạnh các nghề khai thác biển, cư dân các làng này vẫn phải tập trung vào sản xuất nông nghiệp, lương thực, thực phẩm từ lúa gạo đến, rau thịt cho các bữa ăn hàng ngày. Đặc biệt là họ vẫn phải đóng thuế nông nghiệp cho nhà nước.
Tư tưởng Nho giáo “trọng nông ức thương”, “bế quan tỏa cảng” đã khiến cho tư duy biển và văn hóa biển của người Việt có một bước lùi đáng kể so với quan niệm về biển bản địa từ xã hội nguyên thủy (So sánh với truyền thuyết khai thiên lập địa với hình ảnh Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống định cư, khai thác biển).
Nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử đã không ban hành được những chính sách đặc thù về biển (mà ngày nay ta thường gọi là chính sách “khuyến ngư”, áp dụng phù hợp cho các vùng biển). Các nghề nghiệp khai thác tài nguyên biển thường vẫn bị coi là những nghề phụ.

Kinh tế trọng nông không làm cho đất nước chuyển mình sang cơ chế thị trường, mà chỉ củng cố chế độ tập quyền, quan liêu. Dưới thời Hồng Đức nhà hậu Lê (1471 – 1497) nhà nước đã lập 43 Sở Đồn điền và nhân dân nghèo đã đắp đê biển ở Sơn Nam, (tức Nam Định – Ninh Bình ngày nay), gọi là Đê Hồng Đức. Tuy nhiên: “Việc đắp đê này không nhằm khai thác biển mà chỉ phục vụ cho mục tiêu nông nghiệp tức là .ngăn nước mặn, khẩn hoang thêm vùng đất ven biển để làm ruộng, phát triển thủy lợi và nông nghiệp”1.(1)
Từ đời Hậu Lê, phương thức quản lý xã hội ngăn sông cấm chợ đối với các vùng ven biển, hải cảng. Luật hình triều Lê đã có nhiều quy định nhằm ngăn cản các hoạt động buôn bán kinh doanh. Điều 22 – Quốc triều hình luật quy định: “người Việt trốn theo thuyền buôn mà ra nước ngoài bị xử tội chém”. (2)
Để ngăn cản việc giao thương với nước ngoài ở các vùng biển, Điều 62 – Quốc triều Hình luật còn quy định “Những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ thì xử biếm ba tư, phải phạt gấp ba tang vật để sung công, lấy một phần thưởng cho người tố giác. Người chủ trại ấy bị mất chức giám trang”(3).
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), có thể được coi là một trong những chuyên gia lấn biển hàng đầu của Việt Nam. Ông đã dành rất nhiều tâm sức, suy nghĩ tìm tòi, đốc thúc dân đinh khai hoang, lập ấp, dựng lên hai huyện ven biển là Kim sơn và Tiền Hải (Thái Bình). Tuy nhiên cư dân của hai huyện ven biển này cũng chỉ tập trung vào sản xuất nông nghiệp là chính. Điều này phản ánh một tâm lý chung hết sức bảo thủ của tư tưởng Nho giáo, tư tưởng bám lấy đất liền, bám lấy nông nghiệp và quay lưng lại biển.

Với không khí trọng nông nghiệp và tập quán bám đất, bám làng, coi thường những ngành nghề khác, trong không ít cộng đồng người Việt đã xuất hiện “tâm lý sợ hãi biển”. Người Việt đi biển, thường chỉ là những ngư dân đánh cá vùng ven biển, ít khi dám đánh bắt xa bờ.
So với nhiều quốc gia vùng biển khác, chúng ta chưa bao giờ có được một thế hệ những thủy thủ đi biển đường dài kiểu những người Viking, cũng như chưa có được những thương gia và các đội tầu buôn tầm cỡ có khả năng vượt biển tìm đến những thương cảng sầm uất của thế giới, như nhiều đội tầu của các quốc gia khác. Chúng ta cũng chưa bao giờ trở thành một cường quốc hải quân, có đủ lực lượng để làm chủ được vùng biển to lớn của mình.
Ngay cả văn hóa truyền thống cũng xem thường cuộc sống của cư dân biển, thậm chí tâm lý khinh miệt còn phổ biến ở nhiều vùng miền. Người ta gọi người làm nghề biển, ngư dân là những kẻ “không một tấc đất cắm dùi”. Ở Ninh Thuận, Bình Thuận, dân địa phương gọi người sống trên biển là người Hạ theo nghĩa là “hạ đẳng”. Ở Thừa Thiên-Huế, họ bị gọi là “mọi” theo nghĩa “man di mọi rợ”… Cư dân vạn chài không bao giờ được coi là dân gốc, chính cư, mà họ bị coi là dân ngụ cư, ở đợ.
Chúng ta đều biết, người Việt, ngay từ rất sớm đã có ý thức sống hài hòa cùng biển khơi, tôn trọng biển, khai thác biển, nhưng sau này với một nền tảng tư duy văn hóa tiểu nông, chúng ta đã không tận dụng được những ưu thế của một quốc gia biển. Quay lưng lại với biển để tập trung vào nông nghiệp, có nhiều lúc chúng ta đã đối xử với biển giống như với một cái “ao làng”, khai thác biển với phương thức của những người nông dân chân lấm tay bùn chỉ biết “mò cua bắt ốc”. Đây là một trong những hạn chế cơ bản nhất của Người Việt trong văn hóa biển cần được khắc phục trên con đường hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu về văn hóa truyền thống, chúng ta có thể thấy, người Việt cũng còn rất nhiều hạn chế trong nhận thức và xây dựng những chuẩn mực văn hóa tương xứng với tầm của một quốc gia ven biển. Thực tế cho thấy, mặc dù quan tâm tới biển, yêu biển , nói về biển với một sự trìu mến, thân thiết, nhưng trong lịch sử của mình, người Việt xưa chưa bao giờ có một chiến lược toàn diện nhìn nhận và đánh giá khoa học về biển.
Việc tìm hiểu về biển trong lịch sử là hết sức tản mạn. Chính quyền nhà nước ngay từ rất sớm đã cố gắng vẽ bản đồ biển, thăm dò các nguồn lạch, bến bãi để xây dựng hải cảng, chỗ neo tầu, trú ẩn khi giông gió. Tuy nhiên cách làm đó phần nhiều vẫn mang tính chất cảm tính, tùy tiện, kinh nghiệm, theo dạng thức “trông trời, trông đất, trông mây”.
Cho đến trước hòa bình lặp lại, có thể nói chúng ta vẫn chưa có được một tài liệu đầy đủ nào phân tích về địa chất vùng ven biển, môi trường sinh quyển và khả năng sử dụng đât đai của vùng ven biển. Điều đó cũng khiến chúng ta chưa bao giờ xác lập được một kế hoạch sử dụng hợp lý, có hiệu quả những đặc điểm sinh thái này trong phát triển kinh tế xã hội và trên thực tế chỉ biết sử dụng đất đai ven biển vào làm nông nghiệp, hoặc chế biến hải sản một cách manh mún. Chỉ mãi gần đây thôi chúng ta mới có điều kiện để nhận biết được rằng vùng ven biển nước ta có khá nhiều khoáng sản như ilmenit, ziricon, thiếc, vàng, sắt, mămg gan, vật liệu xây dựng…còn trước đây, trong lịch sử chúng ta chỉ biết tới việc lấy nước biển làm muối và khai thác cát làm thủy tinh…
Có lẽ sự kém hiểu biết đáng nói nhất của người Việt trước đây trong nhận thức về biển là trong lĩnh vực thủy văn và khí tượng biển. Chúng ta vẫn hiểu biết về khí tượng và thủy văn biển theo cách thức “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm“. Do thiếu hẳn những kiến thức khoa học tự nhiên, không có được những nghiên cứu, khảo sát các quy luật về sự tương tác đại dương- khí quyển, chúng ta cũng không nhận biết được thực thụ và chính xác tác động của biển Đông đến môi trường sống hàng ngày. Người Việt về cơ bản đã không có được những thông tin chính xác về các điều kiện thủy văn, khí tương, môi trường, khí hậu của vùng ven biển, thềm lục địa và dải ven bờ, trạng thái bề mặt biển, nhiệt độ nước biển, độ mặn, mức sóng…
Công tác đo đạc, vẽ bản đồ biển, phát triển hàng hải mặc dù có được nhà nước phong kiến tiến hành trong một số thời kỳ, nhưng về cơ bản còn thiếu chính xác, khoa học. Điều đó cũng khiến cho việc phân định các khu vực địa lý biển chưa đầy đủ, ảnh hưởng tới việc quy hoạch, quản lý và khai thác biển, dẫn tới những thiếu sót trong việc đảm bảo an sinh biển, giám sát môi trường hoạt động khai thác, đánh bắt hải sản, phòng tránh thiên tai, giao thông, cứu hộ, an ninh quốc phòng trên biển…
Chính giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã nói về trình độ văn hóa đi biển của người Việt như sau :” Họ không quen nghề hàng hải, không biết sử dụng la bàn nên không giám ra khơi xa…Tàu thuyền của họ không chịu nổi gió bão và sóng lớn ở ngoài khơi xa do gỗ và ván thuyền không được đóng chặt với nhau bằng đinh hay chốt, mà chỉ được ghép với nhau bằng dây buộc, phải thay mới hàng năm” (4).
Sự yếu kém mà giáo sĩ Alexandre miêu tả đã khiến những ông vua có ý định cải cách thương mại phải trăn trở. Trong hồi ký của mình được viết vào thế kỷ XVIII, nhà văn hóa mang hai dòng máu Pháp-Việt là Michel Đức đã kể lại rằng bản thân vua Gia Long cũng đã cố gắng tìm cách khắc phục điều này. Ông tìm cách học hỏi kỹ thuật phương Tây ; “nhờ Bá Đa Lộc dịch nhiều bài trong bộ bách khoa toàn thư” để nghiên cứu thêm về kỹ thuật, nhất là kỹ thuật đi biển và đóng tàu. ” để kết hợp lý thuyết với thực hành về kỹ thuật đóng tàu, ông đã mua một chiêc tàu Bồ Đào Nha chỉ nhằm mục đích duy nhất là tháo từng mảnh ván ra rồi mô phỏng kích thước của những mảnh ván đã tháo, thay bằng những mảnh ván mới cho đến khi ráp thành một chiếc tàu mới”. (5)
Trước một lực cản vô hình về văn hóa, những ước vọng về đóng tàu vượt khơi xa của Gia Long mãi sau này vẫn không được thực hiện. Đến đời vua Minh Mệnh sau này, trong buổi tiếp sứ thần Pháp, nhà vua đã phải thốt lên khá chua chát :”Nước Pháp ở quá xa vương quốc của trẫm, nên thần dân của trẫm làm sao có thể qua lại buôn bán với đồng bào của các ông được. Chúng ta bị ngăn cách bởi biển cả và chúng tôi không có thuyền bè nào đủ khả năng vượt biển…” (6).
Trong điều kiện của không khí “trọng nông” và thiếu khoa học, kỹ thuật trước đây, nhiều vùng biển có thể đã bị coi là vùng xa xôi, lạc hậu, lực lượng lao động, nghề nghiệp của các cư dân tại đây đã không được quan tâm và hiểu biết đầy đủ. Điều đó dẫn đến việc nhiều chính quyền trong lịch sử đã không có những hiểu biết và quyết sách nhằm phát triển các khu vực cư dân văn hóa biển tương xứng với tầm vóc chiến lược của biển.
Cùng với một tư duy văn hóa tiểu nông trì trệ và bảo thủ, văn hóa biển của người Việt nói chung và văn hóa của cư dân ven biển nói riêng trong truyền thống đã ít có những sự biến đổi. Việc không khai thác được sức mạnh tổng hợp của văn hóa, không tạo ra được một nền tảng vật chất (kinh tế) cần thiết cho việc phát triển vùng biển, đã khiến cho trong một thời gian dài khu vực này trở thành trì trệ, lạc hậu.
Văn hóa biển về cơ bản đã thiếu đi những động lực thực tiễn cho các hoạt động sáng tạo. Các chuẩn mực tồn tại từ thế hệ này sang thế hệ khác trong trạng thái khô cứng, thiếu sự năng động nhạy bén. Nó không coi trọng việc tiếp thu những giá trị văn hóa mới, nhất là những yếu tố mang tính kỹ thuật, công nghệ. Nó cũng chỉ chú trọng tới những yếu tố tự thân của văn hóa nhiều hơn là phát triển văn hóa trên nền tảng vật chất. Người ta chú ý nhiều đến những giá trị tinh thần, sự tuân thủ những khuôn phép trong lễ giáo, phong tục tập quán, duy trì các mối quan hệ xã hội truyền thống hơn là hiệu quả của những hoạt động lao động khai thác tiềm năng biển.
Nhìn lại những mặt hạn chế trong tư duy văn hóa biển của người Việt truyền thống để hướng đến tương lai là cần thiết. Bên cạnh đó, cũng cần tiếp tục có những nghiên cứu, luận giải khoa học, định hướng xây dựng một nền văn hóa Biển mới, hiện đại phù hợp với sứ mệnh khai thác và phát huy sức mạnh, tiềm năng biển – một nguồn lực vô tận cho sự phát triển của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Chú thích
(1) Phòng nghiên cứu lịch sử Hà Nam Ninh (1988). Lịch sử Hà Nam Ninh, tập 1, Nam Định, trang 138-139.
(2), (3) Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), bản dịch từ chữ Hán, NXB Pháp lý, Hà Nội, 1991, tr 57
(4) Lê Nguyễn (2004) Xã hội Việt Nam qua bút ký người nước ngoài, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh tr 25
(5) Lê Nguyễn (2004) Xã hội Việt Nam qua bút ký người nước ngoài, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh tr 106
Hàn Vũ Linh, in trong cuốn Văn hóa, Con người vùng biển đảoViệt Nam, nxb Chính trị Hành chính, 2012, in lại trên Tạp chí Truyền thống và Phát triển số 5/2012