Trong xã hội Việt Nam truyền thống, những vấn đề gia đình mặc dù được nhìn nhận thoáng hơn ở Trung Hoa nhưng không vì thế mà sự tôn trọng các mối quan hệ gia đình có sự lỏng lẻo hơn, vị trí của gia đình trong cộng đồng bị xem thường hơn. Cùng xuất phát từ những nguyên lí cơ bản của Nho giáo nhưng gia đình Việt Nam tôn trọng những mối quan hệ tình cảm, coi tình cảm là cơ sở nền tảng cho những vấn đề về nghĩa vụ và trách nhiệm.
Quan hệ vợ chồng
Trong cách thức tổ chức của gia đình sau hôn nhân ở xã hội truyền thống trước đây, thời gian đầu hầu hết gia đình trẻ phải ở chung cùng bố mẹ với lí do là dạy dỗ cho các cặp vợ chồng làm quen và thực hành những điều cơ bản để xây dựng và giữ vững gia đình như: tính toán việc ăn ở, phân chia công việc, hình thành nề nếp, gia phong phù hợp với truyền thống của gia đình.
Cũng có một số gia đình có quan điểm tiến bộ tạo điều kiện cho con cái sau khi lập gia đình được ở riêng để phát huy tính tự lập và không ỉ lại vào bố mẹ. Mặc dù vậy sự riêng tư của các gia đình trẻ trong mô hình gia đình truyền thống đều những giới hạn và qui định cụ thể, chịu sự chi phối trực tiếp của gia đình lớn. Nói là ở riêng nhưng thực chất vẫn ở cùng bố mẹ trên cùng mảnh đất của tổ tiên, có khi chỉ cách nhau bức vách. Trên thực tế mọi hoạt động của gia đình trẻ vẫn bị kiểm soát bởi bố mẹ, ngay cả trong vấn đề kinh tế gia đình.
Cùng với hình thức gia đình sống chung và nhiều thế hệ là khá phổ biến trong mô hình gia đình truyền thống, quan hệ vợ chồng chịu sự chi phối mạnh mẽ của rất nhiều mối quan hệ khác trong gia đình, đặc biệt là những mối quan hệ ở gia đình nhà chồng.
Rất nhiều các tài liệu đã phản ánh mối quan hệ khá phức tạp giữa mẹ chồng nàng dâu mà trong đó sự bất bình đẳng và thân phận thấp kém của người phụ nữ biểu hiện khá rõ sau khi lập gia đình. Người phụ nữ truyền thống sau khi lập gia đình một mặt phải yêu thương, phụng sự chồng, chăm sóc và nuôi dưỡng con cái, vun vén và chăm lo cho công việc nội trợ trong gia đình, quản lý gia đình, nhưng mặt khác họ lại phải biết dung hoà giữa các mối quan hệ với gia đình nhà chồng, chiều ý bố mẹ chồng và tuân thủ mọi phép tắc của tổ tiên. Một người vợ chỉ được nhìn nhận, đánh giá khi có được hạnh phúc trong mối quan hệ vợ chồng là khi họ có thể đảm bảo mọi chức năng mình đối với gia đình nhà chồng, đem lại hạnh phúc cho gia đình nhà chồng trong khi hạnh phúc thực sự của bản thân họ lại không được chú ý.
Đối với gia đình Việt Nam truyền thống, sự mâu thuẫn xung đột vợ chồng không bắt nguồn từ những nguyên nhân kinh tế như xã hội hiện đại mà trái lại hình thức phổ biến của những mâu thuẫn đều nằm trong hành vi và cách ứng xử của người phụ nữ với gia đình nhà chồng. Khi không đảm nhiệm được những chức năng của người vợ được quy định bởi lễ giáo truyền thống, người phụ nữ sẽ bị coi là hư hỏng, họ phải chịu những hình phạt và sự đối xử bất công và tệ bạc từ phía người chồng và gia đình nhà chồng, thậm chí là những hành vi bạo lực.
Có thể thấy cùng với những lễ giáo khắt khe của truyền thống, nó không chỉ ăn sâu vào tiềm thức của mỗi gia đình, mà trên phạm vi rộng lớn nó trở thành tiêu chí đánh giá của của dư luận xã hội. Với những người chồng tỏ ra quan tâm, yêu thương vợ, chăm sóc vợ đôi khi bị nhìn nhận là người nhu nhược, bất hiếu với cha mẹ, thậm chí bị chê cười là “không biết dạy vợ”.
Mối quan hệ giữa vợ và chồng trong các gia đình thời xưa thực sự là vấn đề cần nghiên cứu và đưa ra những đánh giá chân xác. Nhiều số liệu đã chỉ ra rằng, hiện tại, tỉ lệ li hôn đang gia tăng với nguyên nhân được giải thích từ khía cạnh kinh tế, từ việc người phụ nữ đã được giải phóng hay do quan hệ tình dục không phù hợp… Quay trở lại hoàn cảnh xã hội trước đây, người ta coi ly hôn là chuyện “động trời”, ảnh hưởng không chỉ đến bản thân hai người mà còn đến cả gia đình, con cái về lâu về dài, và lên án rất nặng nề về mặt dư luận xã hội – khi mà điều kiện nền kinh tế còn thiếu thốn đủ bề, khi địa vị người phụ nữ không cao, khi người ta lấy nhau không hẳn vì tình yêu… như một số nhà nghiên cứu nhận định: gia đình Việt Nam truyền thống được gắn kết một cách bền chặt là do tình nghĩa và trách nhiệm giữa các thành viên.
Đối với việc phân công lao động và trách nhiệm trong mối quan hệ vợ chồng, xã hội truyền thống đặt ra nhiều kì vọng đối với những đôi vợ chồng: phụ nữ thì phải “công, dung, ngôn, hạnh”, “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, “phu xướng, phụ tuỳ”, giữ gìn trinh tiết, nam giới thì “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, luôn giữ địa vị làm chủ trong gia đình và rất nhiều các ràng buộc khác trong mối quan hệ với họ hàng, làng xóm.
Có thể thấy những quy định của xã hội truyền thống đã mang tính áp đặt đối với gia đình theo tiêu chí xây dựng gia đình hạnh phúc như người chồng thường lo những việc lớn trong gia đình như là trụ cột của kinh tế, lo toan chuyện nghề nghiệp, kiếm sống, quyết định hôn nhân cho con cái, mua đất, xây dựng nhà cửa, trong khi đối với phụ nữ, họ thường đảm nhiệm các công việc nội trợ, sinh con đẻ cái, quán xuyến công việc trong gia đình. Đây được coi là điều hiển nhiên trong xã hội nông nghiệp, khi nam giới là tượng trưng cho sức mạnh, có điều kiện giao tiếp, hiểu biết nhiều và do vậy, đóng góp cho gia đình nhiều hơn. Kể cả khi người vợ giỏi hơn chồng về mặt nào đó nhưng cũng nhường quyền quyết định cho chồng vì nó còn liên quan đến anh em họ hàng bên nội. Nhiều trường hợp, dù người vợ được tham khảo ý kiến nhưng họ vẫn luôn tỏ ra tin tưởng tuyệt đối đối với chồng.
Một nguyên nhân nữa là phụ nữ ngày xưa ít có điều kiện học hành nên họ càng tự ti. Họ sẵn sàng đảm nhận những công việc được coi là “nhỏ”, “bình thường”, là “việc vặt” trong gia đình như lao động sản xuất, chăm sóc con cái, lo lắng đến từng bữa ăn, giấc ngủ của các thành viên, từ người già, trẻ em mà không một lời than thở hay đòi hỏi trong khi những bận rộn, lo toan đó có thể xâm chiếm và lấy đi của họ hầu hết thời gian và sức lực.
Trong mô hình gia đình truyền thống, mọi thành viên trong gia đình đều đón nhận và thụ hưởng sự hy sinh của phụ nữ, nhất là người chồng nhưng không mấy khi người ta quan tâm và sẵn sàng thể hiện sự biết ơn của mình đối với vợ. Với mong muốn về một gia đình êm ấm, hoà thuận, người phụ nữ luôn cố tỏ ra nhường nhịn trong mọi trường hợp.
Chính bản thân nhận thức của người phụ nữ truyền thống trước đây là khá hạn chế. Họ nhìn nhận sự bất công, bất bình đẳng của họ trong quan hệ vợ chồng là một việc bình thường, hợp với lễ giáo và họ không chấp nhận nổi khi trật tự đó thay đổi. Ngay cả trong xã hội hiện đại do ảnh hưởng của những yếu tố truyền thống nhiều phụ nữ cũng vẫn chưa nhận thức rõ ràng trong vấn đề bất bình đẳng giới vì vậy họ vẫn bày tỏ thái độ cam chịu nhiều hơn là đấu tranh và phản kháng.
Tương tự như mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu vốn là khá nhạy cảm trong nhiều trường hợp, nhưng nhiều người phụ nữ vẫn chưa nhận thức đúng về vấn đề này mà thậm chí còn luôn tỏ ra bênh vực và thông cảm cho người chồng của họ.
Một vấn đề khác trong quan hệ vợ chồng ở gia đình truyền thống đó là vấn đề quan hệ tình dục, nhiều tài liệu cũng cho thấy ngay cả trong vấn đề này, người vợ cũng luôn phải chịu sự bất công, họ ở trạng thái bị động và cam chịu. Ngay cả trong xã hội hiện đại, sự ảnh hưởng của vấn đề tình dục mang truyền thống vẫn là khá lớn khi nó được nhìn nhận là chuyện riêng của gia đình mà người phụ nữ khó có thể nói lên tiếng nói của mình.
Mặc dù có rất nhiều nhược điểm của mô hình gia đình truyền thống được bộc lộ dưới sự chi phối của hệ tư tưởng mang tính nông nghiệp, gia phong, lễ giáo, tuy nhiên các nhà nghiên cứu khi so sánh với mô hình gia đình hiện đại cũng phải thừa nhận tính ưu việt của gia đình truyền thống đặc biệt trong mối quan hệ vợ chồng. Nhiều cứ liệu lịch sử ghi chép lại cho thấy sự hoà thuận và chung thuỷ là hai nét đẹp cơ bản không chỉ trong các ứng xử vợ chồng, duy trì mối quan hệ và sự ổn định gia đình mà còn là nét đẹp trong văn hoá truyền thống của người Việt.
Có thể thấy cách ứng xử của người phụ nữ mang tính quyết định cho gia trị về sự hoà thuận gia đình. Người phụ nữ truyền thống luôn xác định họ là thành viên của gia đình đa thế hệ, cũng như là thành viên của thôn xóm. Vì vậy, việc duy trì mối quan hệ họ hàng, giữ gìn danh tiếng, hình ảnh của gia đình, dòng họ được coi là trách nhiệm của mọi thành viên. Họ đã đặt quyền lợi của gia đình và dòng họ lên trên quyền lợi cá nhân.
Sự chung thuỷ vợ chồng trong xã hội truyền thống được nhìn nhận là một giá trị tích cực đối với sự phát triển của gia đình và xã hội, tuy nhiên giá trị này lại chỉ được nhìn nhận và áp dụng đối với phụ nữ nhiều hơn so với nam giới. Thực tế là các cụ ông có thể lấy nhiều vợ nhưng họ vẫn duy trì mối quan hệ với vợ cũ rất tốt và luôn tỏ rõ quyền uy của mình trong gia đình. Tục đa thê, hay việc đàn ông ngoại tình không chỉ thoả mãn nhu cầu về sinh lí đơn thuần, hay nhu cầu có con thừa tự, mà còn tính đến yếu tố kinh tế:
Trái lại với sự chung thuỷ của người đàn ông là khá cởi mở và dễ dãi với “năm thê, bảy thiếp”, chưa kể đến những cô gái ả đào, kỹ nữ mà họ gặp gỡ khi đi làm quan hay đi buôn bán xa nhà, thì sự chung thuỷ của người phụ nữ truyền thống lại được đóng khung cố định trong việc tôn thờ và chỉ biết đến một hình ảnh của người chồng của mình. Sự chung thuỷ của người vợ được đặt trong đạo đức cơ bản của Nho giáo, là giá trị hàng đầu để duy trì sự ổn định của gia đình, nhưng mặt khác đó cũng thể hiện bản chất của xã hội gia trưởng và bất bình đẳng giới sâu sắc trong tính đặc thù của gia đình Việt Nam truyền thống. Cũng có không ít trường hợp ngoại lệ có những người đàn ông chung thuỷ, một vợ một chồng, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn vất vả với vợ con trong cuộc sống gia đình. Họ trở thành những tấm gương của đạo đức chung thuỷ trái với sự chung thuỷ mang tính giả tạo trong Nho Giáo được mọi người ca ngợi và nhắc đến nhiều nhất như trường hợp của Cao Bá Quát, ông bộc lộ rõ phương châm sống của mình, thà chung thuỷ với người vợ tần tảo, nghèo khó chứ nhất định không chịu lấy thêm những người vợ khác. Tương tự như vậy, giá trị chung thuỷ được thể hiện cả hai phía vợ và chồng trong mô hình gia đình truyền thống dường như chỉ đúng nhiều hơn ở các gia đình bình dân so với các gia đình quan lại phong kiến.
Quan hệ cha mẹ – con cái
Trong xã hội truyền thống, từ lúc được sinh ra, một đứa trẻ trải qua hàng loạt các nghi lễ truyền thống mà những nghi lễ này thể hiện sự sắp đặt của cha mẹ, sự mong đợi và kì vọng lớn lao của cha mẹ đối với thế hệ kế thừa và phát triển truyền thống của gia đình. Những tiêu chí giáo dục trong gia đình truyền thống đối với trẻ em được phân biệt rõ theo giới như với con trai thì phải chứng tỏ chí làm trai ở đời học hành, thi cử, đỗ đạt… với con gái thì phải có tứ đức, tam tòng, đảm đang việc nội trợ, ngoan ngoãn, nết na… Nói về sự kỳ vọng của cha mẹ trong gia đình truyền thống xa xưa, có tác giả đã từng viết:“Cha mẹ nào cũng mong con nên người. Nhưng nên người theo khuôn mẫu nào, theo hướng nào thì cha mẹ lấy một mẫu người lí tưởng nào đó, có thể là một người cụ thể trong đời thường, hoặc một nhân vật trong truyện,… nhằm hướng cho con noi theo. Và như vậy, con cái lớn lên thành người như thế nào đều được cha mẹ sắp xếp, định sẵn. Quan hệ giữa người lớn và trẻ thơ ngay trong gia đình đã là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tình cảm, tính cách và hành vi của trẻ, đến sự ổn định và phát triển xã hội cũng như đến từng gia đình”(1).


Việc giáo dục con cái trong gia đình trước đây được tiến hành từ rất sớm với những nội dung khá công phu và bài bản được cha mẹ chuẩn bị sẵn về cơ bản là giáo dục tri thức và đạo lý như cha mẹ thường dạy con biết yêu lao động, cần cù, chăm chỉ, hiếu kính cha mẹ, tôn sư trọng đạo, ứng xử nề nếp trong gia đình và ngoài xã hội. Đối với con trai, các gia đình chú trọng tạo điều kiện học hành cho con đến mức có thể, thậm chí nhiều cha mẹ phải nhịn ăn, tiết kiệm từng đồng để lo cho con ăn học. Nguyên nhân của sự quí con trai hơn con gái là gia đình chỉ hy vọng vào con trai, nhất là con trưởng để giữ gìn cơ nghiệp và duy trì gia thống.
Mặc dù vậy, sự phân biệt về giới trong gia đình truyền thống không đến mức ghét bỏ con gái như ở một số dân tộc dã man trong lịch sử mà trái lại con gái cũng nhận được khá nhiều sự giáo dục từ cha mẹ. Sự giáo dục cho con gái trong gia đình thường mang tính hướng nội như người mẹ giáo dục con về chuyện may vá, thêu thùa, nội trợ, cách thức tổ chức, quản lý gia đình.
Hiếu thảo là một đạo lý sâu xa trong mô hình gia đình truyền thống thể hiện mối quan hệ chiều dọc giữa cha mẹ và con cái. Khi mô hình gia đình gia trưởng là chuẩn mực trong xã hội cũ, luật pháp đã có rất nhiều qui định đối với nghĩa vụ và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ mà nếu vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng: “Cha sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế”, “Cha còn thì phải xem cái chí của cha, cha mất rồi thì phải xem việc làm của cha, trong ba năm không được đổi đạo của cha”, “Con cái không có quyền truy tố cha mẹ dù cho mẹ có khắc bạc, tàn nhẫn đến mức nào”(2).
Có thể thấy đạo hiếu trong gia đình truyền thống biểu hiện tính quy củ và máy móc khi con cái ngoài việc hiếu kính đối với cha mẹ còn phải tuyệt đối phục tùng mọi suy nghĩ, ý muốn và mệnh lệnh của cha mẹ mà không được cãi lại. Luân lí thì đối với con cái tuy có hà khắc như vậy nhưng phong luật và phong tục thì mang ý nghĩa khoan dung và cởi mở hơn. Mặc dù luật pháp có đề cập đến một số hành vi của cha mẹ – tức là cha mẹ cũng phải luôn thương yêu và quan tâm chăm sóc con cái, nhưng Con cái là sở hữu của cha, là của để dành của cha mẹ để nhờ vả, nương tựa lúc về già nên cha mẹ có toàn quyền quyết định đối với hạ nh phúc, sinh mệnh của chúng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái là quan hệ một chiều. Quan điểm truyền thống cho rằng: chỉ có ai biết hiếu đễ với cha mẹ thì sau này mới có đủ điều kiện để xây dựng gia đình riêng tốt đẹp.
Thực tế quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong xã hội ngày nay thường có sự linh hoạt nhu và cương, tuy nhiên điều này lại khó có thể xảy ra trong xã hội truyền thống. Sự nghiêm khắc của cha mẹ đối với con cái không chỉ là biểu tượng của uy quyền trong gia đình mà thậm chí nó còn được nhìn nhận như yếu tố luật pháp của đất nước.
Bên cạnh sự tôn nghiêm, quy tắc của lễ giáo trong gia đình, những tình cảm của cha mẹ đối với con cái cũng biểu hiện khá rõ ở mô hình gia đình truyền thống, đặc biệt là tình cảm và sự yêu thương của người mẹ dành cho con cái. Trong xã hội truyền thống, nếu lễ giáo và đạo đức thường được người cha duy trì như theo mô hình của một thiết chế chặt chẽ, quy củ, nhằm răn đe, kiểm soát và uốn nắn hành vi của con cái, thì với người mẹ dường như những tình cảm lại được biểu hiện một cách khá tự nhiên. Chính vì vậy trong quan hệ với người cha, người con thường kính và sợ, trong khi với người mẹ lại là sự gần gũi yêu thương và chia sẻ.
Khi nhắc tới mối theo chiều dọc trong gia đình, chúng ta có thể thấy sự khác biệt trong gia đình truyền thống Việt Nam và gia đình truyền thống Trung Hoa ở tinh thần trọng Mẫu của người Việt. Từ gia đình đầu tiên trong tâm thức dân gian, Mẹ Âu Cơ đã cùng chia sẻ trách nhiệm với cha Lạc Long Quân trong việc đa năm mơi người con xuống biển để lập nghiệp và dựng xây đất nước. Tiếp đến là việc thờ cúng, sùng bái hình tượng những người phụ nữ được coi là biểu hiện của sức mạnh, của sự sống, của sự trường tồn như Mẫu Ngàn, Mẹ Lúa, Mẹ Đất, Mẹ Nước, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Tiên Dung… Quốc pháp thì đặt ra rất nhiều qui định đối với người phụ nữ nhưng khi đến được với từng con dân của nó, thì chúng đã phải trải qua sự chọn lọc của gia đình trong điều kiện “phép vua thua lệ làng” mà một kết quả tất yếu là người phụ nữ vẫn có một vị trí được tôn trọng trong gia đình.
Các mối quan hệ khác trong gia đình
Khi quan sát gia đình Việt Nam truyền thống, ngoài quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì quan hệ giữa ông bà – con cháu, giữa anh chị em cũng luôn là mối quan tâm của xã hội cũng như của những công trình nghiên cứu.
Người cao tuổi trong gia đình Việt Nam truyền thống là biểu hiện của sự kính trọng cả về tuổi tác và vốn sống. Bên cạnh đó, người cao tuổi trong gia đình Việt Nam truyền thống có một vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và duy trì các giá trị truyền thống, biểu hiện cụ thể là thờ cúng tổ tiên, ghi chép gia phả, kể lại những câu chuyện của gia đình, dòng tộc cho con cháu, dạy nghề truyền thống cho con cháu…
Trong nhiều gia đình truyền thống, thực tế người già vẫn tham gia như lao động chính cho dù cả cuộc đời họ đã phải làm việc rất nặng nhọc và không được ngơi nghỉ. Tác giả Bùi Thế Cường đã viết “Điều này vừa có ý nghĩa là người già không bị gạt khỏi guồng máy của cộng đồng và gia đình như trong xã hội công nghiệp, nhưng còn có nghĩa là người già vẫn phải kiếm sống cho mình và gia đình, khi họ không có nguồn lực vật chất nào khác hoặc những nguồn lực hiện có không đủ chi dùng cho sinh hoạt” (3).

Dường như có một nguyên tắc dễ chấp nhận trong gia đình truyền thống: đó là giữa các thế hệ thì thế hệ già làm chuẩn cho thế hệ trẻ, còn trong cùng thế hệ thì người này làm chuẩn cho người kia, điều này cũng phản ánh tính cứng nhắc và bất bình đẳng trong mô hình giáo dục truyền thống. Khi người già đang được đặt ở vị trí cao và tôn trọng thì đương nhiên, trẻ em sẽ không nhận được nhiều sự quan tâm và chăm sóc như nhu cầu và mong muốn của mình. Các em là đối tượng được “uốn nắn”, “vin cành”, phải chịu áp lực và phải thực hiện những gì được truyền đạt từ phía người lớn, học hỏi một cách thụ động, một chiều và yếu thế. Mặt khác trẻ em còn tham gia lao động như những người trưởng thành thực thụ. Với công việc thì người lớn coi các em ngang bằng với mình nhưng đối với các quyết định khác trong gia đình thì đó là nhiệm vụ của người gia trưởng, của người già.
Trong quan hệ giữa các anh chị em, các cụ ta xưa thường dùng câu “kiến giả nhất phận” để diễn tả mối quan hệ này tức là phận ai người ấy lo, phải biết tự lập và không dựa dẫm vào người khác. Mặc dù vậy thực tế trong các gia đình truyền thống người Việt, sự yêu thương, đùm bọc, che chở giữa anh chị em trong gia đình vẫn là truyền thống khá phổ biến như câu ca dao từng viết :
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”

Trong gia đình mặc dù tất cả anh chị em đều chịu sự quản lí và dạy dỗ của bố mẹ, tuy nhiên người con trai trưởng thì bao giờ cũng có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với việc kế thừa truyền thống gia đình, hiếu kính phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả phải có trách nhiệm giúp đỡ anh chị em khác, duy trì các mối quan hệ họ hàng, thân thuộc.
“Khi cha mẹ mất thì người anh cả phải thay cha mẹ trông nom các em”, “của cải để lại phải chia đều cho các em nhưng người anh cả có quyền giữ phần lớn hơn, ngoài ra, của hương hoả bao giờ cũng thuộc về anh cả” (4).
Quan hệ giữa anh chị em trong gia đình truyền thống rất được đề cao, theo nhưng nghi lễ bắt buộc chỉ đứng sau quan hệ giữa cha mẹ với con cái. Tư tưởng “quyền huynh thế phụ” trong gia đình truyền thống đã cho thấy trong nhiều trường hợp người anh có vai trò như người cha trong việc chăm sóc, dạy dỗ em va người em phải nghe lời anh như sự hiếu kính với cha mẹ. Khi cha mẹ mất, hiển nhiên người anh phải có trách nhiệm lo lắng cho các em trong gia đình. Trách nhiệm cũng như quyền hạn của người anh trai trong gia đình thể hiện rõ tính gia trưởng trong gia đình truyền thống nhưng nó cũng là yếu tố đảm bảo sự bền vững, trật tự trong gia đình Việt Nam thuở xưa.
Không chỉ có giữ đúng trật tự mà tình cảm thương yêu, hoà thuận giữa anh chị em trong gia đình cũng được đánh giá cao. Người Việt thường nói: “Chị ngã em nâng”, “lọt sàng xuống nia” hay có lối ví von rất gần gũi nhưng lại hàm chứa rất nhiều tình cảm thể hiện sự gắn bó giữa anh em trong gia đình. Từ những quan niệm đó, trong giáo dục gia đình mối quan hệ anh em ruột thịt, anh em họ hàng luôn được nhấn mạnh và các cụ thường nhắc nhở con cháu là “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Để đánh giá một gia đình nào đó người Việt cũng thường nhìn vào mối quan hệ giữa anh chị em trong gia đình. Nếu anh chị em trong gia đình ăn ở với nhau không hoà thuận thì gia đình đó không chỉ bị chê cười mà những bậc người lớn trong gia đình, như ông bà, cha mẹ, cũng bị chê trách vì dạy con chưa tốt.
Mặc dù các thành viên đều có những vai trò và vị trí nhất định trong gia đình nhưng quyền uy và trật tự gia đình được nhiều qui định của nhà nước và làng bảo vệ, thêm vào đó là luân lí bồi thực. Hai điều kiện này làm cho gia đình có vị trí tối trọng mà cá nhân chỉ là những phần tử vô danh trong đó. Một cá nhân trong gia đình truyền thống không thể nào phát triển vượt ra ngoài phạm vi gia đình được, trừ khi họ đã là người cha, người chồng và người chủ nắm mọi quyền lực của gia đình.
CHÚ THÍCH VÀ TRÍCH DẪN
- Lê Minh (chủ biên) (1994), Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, Nxb Lao động, Tr 222
- Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Tp Hồ Chí Minh. Tr 122
- Bùi Thế Cường (2005), Trong miền an sinh xã hội, Nxb ĐH QG Hà Nội. Tr 39
- Toan Ánh (2012) Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, Nxb Trẻ Tr 15

