Tóm tắt: Cho đến nay đã có cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu vị thành niên vi phạm pháp luật. Bài viết tiếp cận xã hội học, sử dụng kết quả điều tra 1402 vị thành niên học sinh (1202 học sinh bình thường và 200 học sinh cá biệt) nhận diện nguy cơ và các hành vi lệch chuẩn, vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên trên đại bàn thành phố Hà Nội, phân tích một số nhân tố chủ quan, khách quan tác động, đồng thời đề xuất một số giải pháp đối với Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội trong việc nâng cao công tác phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng vị thành niên vi phạm pháp luật trong những năm tới.
Từ khóa: vị thành niên, vi phạm pháp luật, phạm tội, yếu tố tác động
- Mở đầu
Vị thành niên là một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng và đặc biệt trong cuộc sống con ngươi, từ tư cách là trẻ thơ cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục sang tư cách công dân trưởng thành, chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội về các hành vi của mình. Nhiều nghiên cứu cho thấy, vị thành niên với những biến đổi tâm, sinh lý, tình cảm và giới hạn nhận thức trong độ tuổi, cùng những tác động tiêu cực từ môi trường sống, giao tiếp gia đình, xã hội đã dẫn tới gia tăng các hành vi lệch chuẩn, vi phạm pháp luật hoặc phạm tội.
Tiếp cận sinh học, nhân chủng học về tội phạm trong đó có tội phạm vị thành niên, những nghiên cứu thực nghiệm cổ điển dựa trên phân tích hồ sơ tội phạm, xét nghiệm y tế của Cesare Lombroso, Raffaele Garofalo và sau này là Patricia A. Jacobs, xác định các đặc điểm sinh học ảnh hưởng trực tiếp đến nguy cơ và các hành vi phạm tội. Mặc dù còn thiếu bằng chứng và sự kiểm định trên diện rộng, tuy nhiên cách tiếp cận, phân tích “bản năng tội phạm” cho thấy sự bất thường về sinh học hay vấn đề rắc rối về tâm sinh lý khiến cho tội phạm được xem xét như những người “bệnh” cần trị liệu, phục hồi và thực thi các giải pháp nhân đạo (Siegel. L.J, 2006)
Các lý thuyết mang tính liên ngành về xã hội học và giáo dục học đều nỗ lực lý giải hành vi vi phạm pháp luật là hành vi “học được” từ người khác thông qua tương tác xã hội như môi trường gia đình, bạn bè hoặc đồng nghiệp. (Sutherland. E, 1978). Cloward. R và L. Ohlin (1966) đã nghiên cứu xem các nền văn hóa khác nhau và phát hiện việc thiếu cơ hội để có được công việc hợp pháp khiến những người trẻ tuổi cảm thấy bị tách rời khỏi nền văn hóa của chính họ, tăng khả năng chuyển sang các nền văn hóa khác và trường hợp vị thành niên như những người không thể đạt được mục tiêu thông qua những phương tiện hợp pháp sẽ có suy nghĩ sử dụng những phương tiện bất hợp pháp và tham gia vào “tiểu văn hoá tội phạm”.
Một số lý thuyết kiểm soát xã hội tập trung lý giải hành vi phạm pháp của vị thành niên trong mối quan hệ với gia đình, nhà trường, những giá trị tập quán và thể chế xã hội. Hành vi, phong cách sống của cha mẹ, người thân trong gia đình và sự kiểm soát của cha mẹ là yếu tố rất quan trọng để phòng ngừa hay xử lý tội phạm ở độ tuổi vị thành niên (Reckless. W, 1973, Matza. D 1990, Hirschi.T, 1990).
Gần đây, những biến đổi xã hội dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 tác động sâu rộng đến hành vi, nguy cơ vi phạm pháp luật của vị thành niên. Tội phạm vị thành niên đang trở thành vấn đề phổ biến toàn cầu, bao gồm nhiều tội phạm khác nhau như trộm cắp, đánh nhau, sử dụng ma túy và tấn công tình dục (Dong.J, 2023). Bất bình đẳng kinh tế, toàn cầu hóa, điều kiện kinh tế xấu đi, mức sống suy giảm, sự tiếp cận tự do các phương tiện truyền thông là các yếu tố gây ra phản ứng tiêu cực ở thanh thiếu niên, dẫn đến tội phạm thanh thiếu niên (Kostyuk. M.F, 2022). Tỷ lệ tội phạm của người trẻ đang tăng, với sự đa dạng về loại tội phạm, độ tuổi thấp khi phạm tội, và sự tàn ác của các phương pháp phạm tội, cảnh báo chúng ta cần chú ý đến phân tích và nghiên cứu động cơ của tội phạm phạm thành niên trong bối cảnh xã hội mới (Liang.J, Tianjiao Peng, 2023; Lyu.P; 2023).
Nghiên cứu của Wan.M, Ziyi Song (2023) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tích hợp các chỉ số tâm lý sinh lý với các thành phần tâm lý xã hội để phân tích hành vi phạm pháp của vị thành niên. Bằng cách kiểm tra các tương tác phức tạp giữa sự căng thẳng sinh lý học, cảm xúc, hành vi và cấu trúc xã hội, từ đó đưa đến ý tưởng xây dựng chiến lược đa diện để can thiệp toàn diện, giải quyết sự phức tạp của hành vi phạm pháp trong độ tuổi vị thành niên. Chauhan.A (2022) nhấn mạnh, bên cạnh các yếu tố gia đình, xã hội thì hiện nay, các vấn đề sức khỏe tâm thần, các vấn đề tâm thần tiềm ẩn, sự lạm dụng chất kích thích có thể góp phần trực tiếp vào hành vi tội phạm ở vị thành niên.
Về tình hình vị thành niên vi phạm pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội, theo số liệu thống kê từ năm 2018 đến năm 2023, lực lượng Công an thành phố Hà Nội đã phát hiện 858 vụ việc với 3150 trường hợp vị thành niên vi phạm nhiều tội danh, đặc biệt là các tội danh hình sự. Từ những nghiên cứu thực tiễn cho thấy xu hướng tăng lên và phức tạp của tội phạm vị thành niên Hà Nội ở 5 vấn đề: Thứ nhất, sự tăng lên của con số những vụ vi phạm và số lượng vị thành niên vi phạm pháp luật hoặc phạm tội. Thứ hai, trẻ hóa trong độ tuổi của các em vi phạm pháp luật và phạm tội. Thứ ba, sự mở rộng phạm vi của các tội danh, nếu trước đây sự vi phạm pháp luật hay phạm tội của vị thành niên thường chỉ tập trung nhiều ở những tội danh có liên quan đến gây rối trật tự trị an, trộm cắp tài sản công dân thì nay đang lan rộng ra rất nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là tội phạm “phi truyền thống”… Thứ tư, sự tăng lên về mức độ phức tạp, tính chất hành vi, liên quan đến quy mô, tổ chức, hình thức biểu hiện của các tội danh. Thứ năm, sự gia tăng của loại hình tội phạm hình sự có nguyên nhân từ “tâm lý”, “tâm thần” bất ổn, không làm chủ được hành vi khi gây án.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vị thành niên, tuy nhiên còn thiếu các nghiên cứu khoa học làm rõ các nguy cơ, các yếu tố tác động đến nhận thức, hành vi của vị thành niên dẫn đến hành vi vi phạm pháo luật. Điều đó dẫn tới những hạn chế, bị động, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc đề ra các giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn tội phạm vị thành niên từ sớm, cũng như hiệu quả thực tế của của công tác phòng ngừa, ngăn chặn, công tác hỗ trợ vị thành niên vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng.
- Phương pháp nghiên cứu
Số trong bài viết là kết quả điều tra xã hội học từ đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố Nghiên cứu các yếu tố tác động đến việc phạm tội của trẻ vị thành niên trên địa bàn Thành phố Hà Nội và đề xuất các giải pháp giáo dục do Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển chủ trì, thực hiện giai đoạn 2022 -2024.
Nghiên cứu đã thiết kế 02 mẫu phiếu điều tra bảng hỏi dành cho vị thành niên: 01 nhóm học sinh bình thường và 01 nhóm học sinh cá biệt (từng có hành vi vi phạm pháp luật). Về phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu chủ định theo 10 quận, huyện, thị xã (1/3 trong tổng số 30 quận, huyện, thị xã) thuộc đơn vị hành chính của Hà Nội đảm bảo tính đại diện cho toàn bộ các khu vực của Thành phố bao gồm các quận trung tâm, các khu vực ngoại thành, yếu tố thành thị, nông thôn thuộc thành phố Hà Nội.
Các quận được chọn đại diện theo khu vực địa lý: Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Hà Đông, Hoàng Mai, Nam Từ Liêm. Các thị xã và huyện được chọn đại diện theo khu vực địa lý: Sơn Tây, Quốc Oai, Mê Linh, Gia Lâm, Thường tín
Sau khi xác định mẫu phân tầng, lập danh sách 20 trường/cơ sở giáo dục thuộc 10 địa bàn quận/huyện/thị xã, nhóm nghiên cứu làm việc với ban lãnh đạo các trường, xin danh sách học sinh đang học tại trường. Với yếu tố đã có sự đồng nhất về các đặc tính nhóm học sinh, đề tài chọn mẫu xác suất hệ thống đảm bảo lấy thông tin từ 60 học sinh/trường.
Tổng số mẫu thu về gồm 1200 học sinh bình thường và 200 học sinh cá biệt (từng có hành vi phạm pháp luật). Toàn bộ phiếu điều tra sau khi thu thập đã được ban chủ nhiệm đề tài kiểm tra và nhập vào phần mềm chuyên dụng SPSS để xử lý và phân tích các số liệu thu thập được theo đúng quy trình khoa học của phương pháp điều tra định lượng.
Để đo lường hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên trong mẫu khảo sát, nhóm nghiên cứu xây dựng 21 chỉ báo bao quát 8 nhóm tội phạm trong đó hành vi phạm pháp hay phạm tội lại có thể nằm trong nhiều nhóm khác nhau, cụ thể bao gồm:
- Nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm (Đánh nhau gây thương tích; Xé, lột đồ bạn, quay clip; Tụ tập nhóm, giải quyết tranh chấp bằng bạo lực)
- Nhóm tội phạm trộm cắp, cướp giật (Lấy trộm tiền, đồ dùng của người khác; Trấn lột tiền của người khác; Cướp giật tài sản của người khác; )
- Nhóm tội phạm kinh tế (Đánh bạc, chơi lô đề, cá độ, Tiếp tay các đối tượng lừa đảo trên mạng; Tham gia nhóm hacker và hack tài khoản trên mạng)
- Nhóm tội phạm công nghệ cao (Tạo nick ảo lừa đảo, tấn công mạng Internet; Chửi bới người khác trên mạng; Tiếp tay các đối tượng lừa đảo trên mạng; Tham gia nhóm hacker và hack tài khoản trên mạng; Tung tin giả trên mạng; Chia sẻ trang web phản động, nói xấu đất nước; Xem và chia sẻ các trang web bạo lực, 18+)
- Nhóm tội phạm liên quan tụ tập, gây rối trật tự công cộng (Vẽ bậy, phá hoại cảnh cảnh quan công cộng; Tụ tập, gây rối, mất trật tự trị an nơi công cộng; Tụ tập nhóm, giải quyết tranh chấp bằng bạo lực)
- Nhóm tội phạm xâm hại an ninh quốc gia (Tung tin giả trên mạng; Chia sẻ trang web phản động, nói xấu đất nước…)
- Nhóm tội phạm mại dâm, ma túy (Trao đổi tình – tiền sugar daddy- baby; Sử dụng ma túy, thuốc lắc)
- Nhóm hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội khác (Vi phạm luật giao thông; Quấy rối, gạ gẫm người khác quan hệ tình dục; Đi massage, karaoke không lành mạnh; Xem và chia sẻ các trang web bạo lực, 18+ ).
Đối với xây dựng mô hình hồi quya, Căn cứ vào giả thuyết nghiên cứu, các biến số độc lập được phân làm 5 nhóm tương ứng với từ 5 mô hình phân tích trên một biến số phụ thuộc. Các nhóm biến số độc lập gồm:
Mô hình 1 – Nhóm 1: Các đặc điểm cá nhân vị thành niên (giới tính, tuổi, kết quả học tập, rèn luyện, khen thưởng…)\
Mô hình 2 – Nhóm 2: Đặc điểm gia đình vị thành niên (Nghề của bố, nghề của mẹ, hoàn cảnh kinh tế gia đình, quyết định của bố mẹ đến vị thành niên)
Mô hình 3 – Nhóm 3: Tâm lý, nhận thức, giá trị của vị thành niên (áp lực và sự căng thẳng của vị thành niên trong các mối quan hệ, sự tự hào về bản thân và các vấn đề xung quanh, định hướng giá trị truyền thống, giá trị hiện đại trong suy nghĩ vị thành niên, nhận thức về pháp luật của vị thành niên…)
Mô hình 4 – Nhóm 4: Hoạt động thực tiễn của vị thành niên (các hoạt động thực tiễn tích cực của vị thành niên, các hoạt động thường ngày của vị thành niên, sử dụng quỹ thời gian cho các việc học tập, nghỉ ngơi, lao động, vui chơi, giải trí…)
Mô hình 5 – Nhóm 5: Quan hệ xã hội và những tác động quan hệ xã hội đến vị thành niên (số lượng bạn bè, bạn bè thân, tiêu chí kết bạn tích cực, ảnh hưởng bạn bè và mọi người đến vị thành niên, có thần tượng và những ảnh hưởng của thần tượng đến hành vi cá nhân…)
3.1 Hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên
Khảo sát trực tiếp về hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên, mặc dù là vấn đề nhạy cảm (nhiều cuộc nghiên cứu có số liệu rất thấp do các em không dám thừa nhận hành vi và điền trong phiếu trả lời), tuy nhiên kết quả điều tra biểu đồ 3.1 là khá bất ngờ có tới 24% nhóm học sinh đã có ít nhất 1 lần vi phạm hoặc phạm 01 tội trong danh mục 21 hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội. Đối với nhóm học sinh cá biệt thì tỷ lệ này cao với 77% (gần 4/5) đã có ít nhất 1 lần vi phạm hoặc phạm 01 tội trong danh mục 21 hành vi vi phạm và phạm tội (xem biểu đồ 3.1, 3.2).
Về các hành vi vi phạm và phạm tội cụ thể, theo bảng 3.1 thì tỷ lệ cả 2 nhóm học sinh và học sinh cá biệt không cao nếu áp vào từng tội danh vi phạm, hoặc phạm tội. Nói cách khác là mặc dù tỷ lệ từng vi phạm 01 tội khá cao, nhưng lại được phân tán nhỏ trên 21 tội danh. Nhiều em vi phạm hoặc phạm tội này thì lại không vi phạm và phạm tội khác. Đối với nhóm học sinh, tỷ lệ vi phạm cao nhất là tội “chửi bới, xúc phạm người khác trên mạng” (8,8%). Còn với 20 hành vi vi phạm và phạm tội đều chỉ có dưới 5% các em phạm phải.Đối với nhóm học sinh cá biệt, tỷ lệ vi phạm cao nhất là “vi phạm luật giao thông” (15,9%) và tội “chửi bới, xúc phạm người khác trên mạng” (8,8%). Còn với 20 hành vi vi phạm và phạm tội đều chỉ có dưới 5% các em đã từng phạm phải.

Đối với nhóm học sinh cá biệt, tỷ lệ vi phạm cao nhất là “vi phạm luật giao thông” (37,0%); “Tụ tập, giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực” (18%), “chửi bới, xúc phạm người khác trên mạng” (13,0%) và “đánh nhau” (11,5%). Còn với 17 hành vi vi phạm và phạm tội đều chỉ có dưới 5% các em đã từng phạm phải.
Đáng chú ý là so sánh hành vi của học sinh và học sinh cá biệt thì nhóm học sinh đều có một tỷ lệ nhất định vi phạm hoặc phạm trong danh mục 21 vi phạm và các tội danh, tuy nhiên đối với nhóm học sinh cá biệt thì có một số vi phạm và tội danh, không có trường hợp nào các em vướng vào như “Xé, lột đồ bạn, quay clip”; “Cướp giật tài sản”; “Tạo nick ảo lừa đảo, tấn công mạng Internet”; “Tiếp tay lừa đảo mạng”. Vấn đề này cần có sự nghiên cứu, tham chiếu các nghiên cứu khác và giải thích thêm.
Phân tích tương quan hành vi vi phạm, phạm tội với giới tính và độ tuổi qua kết quả kiểm định Chi square (X2) cho thấy nhiều hành vi không đạt ý nghĩa thống kê. Một phần do tỷ lệ phạm vào các hành vi nhỏ so với tổng thể. Phần khác theo những nghiên cứu gần đây thì các đặc tính nhân khẩu học không phải là yếu tố có tính quyết định đến hành vi phạm tội.
Bảng 3.1. Tương quan giữa vi phạm quy định, chuẩn mực của học sinh theo giới, nhóm tuổi (%)
| HÀNH VI | Học sinh | Học sinh cá biệt | ||||||
| Giới tính | Tuổi | Chung | Giới tính | Chung | ||||
| Nam | Nữ | Dưới 16 | 16-18 | Nam | Nữ | |||
| 1. Đánh nhau thương tích** | 6,3 | 2,9 | 3,6 | 4,4 | 4,2 | 16,7 | 4,7 | 11,5 |
| 2. Xé, lột đồ bạn, quay clip | 1,3 | 1,8 | 2,0 | 1,5 | 1,6 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
| 3. Tụ tập, giải quyết bạo lực | 4,3 | 3,1 | 2,6 | 3,9 | 3,6 | 23,7 | 10,5 | 18,0 |
| 4. Lấy trộm tiền, đồ dùng | 2,8 | 2,5 | 2,3 | 2,7 | 2,6 | 1,8 | 0,0 | 1,0 |
| 5. Trấn lột tiền người khác | 2,8 | 2,4 | 1,0 | 3,1 | 2,5 | 4,4 | 1,2 | 3,0 |
| 6. Cướp giật tài sản | 3,7 | 2,7 | 1,7 | 3,5 | 3,1 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
| 7. Đánh bạc, lô đề, cá độ | 4,1 | 2,4 | 1,3 | 3,6 | 3,1 | 9,6 | 3,5 | 7,0 |
| 8. Tạo nick ảo lừa đảo, tấn công mạng Internet* | 4,5 | 2,4 | 4,0 | 3,0 | 3,2 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
| 9. Tiếp tay lừa đảo mạng | 2,8 | 2,7 | 1,7 | 3,1 | 2,7 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
| 10. Chửi bới trên mạng** | 11,3 | 6,4 | 8,4 | 8,2 | 8,3 | 14,9 | 10,5 | 13,0 |
| 11. Hacker và hack tài khoản | 3,7 | 2,8 | 2,6 | 3,3 | 3,1 | 1,8 | 1,2 | 1,5 |
| 12. Xem và chia sẻ các trang web bạo lực, 18+** | 5,8 | 2,5 | 3,0 | 4,1 | 3,8 | 9,6 | 1,2 | 6,0 |
| 13. Vẽ bậy, phá hoại cảnh cảnh quan công cộng | 5,4 | 3,5 | 2,3 | 4,9 | 4,2 | 0,9 | 1,2 | 1,0 |
| 14. Gây rối, mất trật tự trị an nơi công cộng | 3,2 | 2,2 | 2,6 | 2,6 | 2,6 | 2,6 | 0,0 | 1,5 |
| 15. Tung tin giả trên mạng | 4,1 | 2,4 | 2,6 | 3,2 | 3,1 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
| 16. Chia sẻ web phản động | 3,2 | 2,4 | 1,0 | 3,3 | 2,7 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
| 17. Sử dụng ma túy | 2,2 | 1,8 | 1,0 | 2,3 | 2,0 | 1,8 | 1,2 | 1,5 |
| 18. Trao đổi tình – tiền (sugar daddy- baby) | 3,9 | 2,9 | 1,0 | 4,1 | 3,3 | 0,9 | 0,0 | 0,5 |
| 19. Vi phạm luật giao thông | 16,8 | 15,4 | 12,6 | 17,1 | 15,9 | 33,3 | 41,9 | 37,0 |
| 20. Quấy rối, gạ gẫm tình dục | 3,5 | 2,5 | 1,0 | 3,5 | 2,9 | 0,9 | 0,0 | 0,5 |
| 21. Đi mat-xa, karaoke không lành mạnh | 4,1 | 2,5 | 1,3 | 3,8 | 3,1 | 2,6 | 0,0 | 1,5 |
(Tương quan giới *p< 0,05; **p<0,01; ***p<0,001)
Nguồn: Số liệu khảo sát của đề tài mã số: CT09/03-2022-3
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nhận thức có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đến hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên. Đây cũng là những gợi ý quan trọng để hướng tới đổi mới nội dung, phương thức xây dựng và hoàn thiện các giải pháp giáo dục pháp luật, ngăn chặn hành vi phạm tội cho vị thành niên trong thời gian tới.
Tìm hiểu nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội, theo số liệu điều tra, những nguyên nhân chủ yếu các em học sinh cá biệt có hành vi vi phạm pháp luật dựa chọn dẫn là “Do bồng bột, nhất thời, tâm lý tuổi trẻ” (76%), “Do bạn bè, người khác rủ rê, lôi kéo” (72,9%), “Muốn được bạn bè nể phục” (64,9%), “Do gia đình thiếu quan tâm” (65,5%), “Cha mẹ nuông chiều, chưa gương mẫu” (59,3%), “Không thể kiềm chế được bản thân” (57,3%), “Chưa hiểu nhiều pháp luật” (51,8%). Các nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ thấp (dưới 50%).
Đáng lưu ý là có một số số liệu phản ánh chỉ báo về nguyên nhân vi phạm pháp luật của vị thành niên hoặc phạm tội là khá “nguy hiểm” về mặt nhận thức như 40,8% nghĩ hành vi của mình là bình thường; 31,1% cho rằng do pháp luật không/ chưa xử lý; 30,1% cho rằng đó là do sở thích riêng.
Phần lớn nguyên nhân chủ yếu được các em chỉ ra là do đặc điểm tâm sinh lý tuổi mới lớn như bồng bột, thiếu suy nghĩ, muốn khẳng định bản thân mình. Đồng thời một số nguyên nhân khách quan cũng được các em đề cập như ảnh hưởng xấu từ bạn bè, người xung quanh; sự thiếu quan tâm của gia đình và giáo dục của nhà trường. Để làm rõ thêm về vấn đề này, một số học sinh từng chia sẻ sâu hơn về các đặc điểm tâm lý, nhận thức khi chứng kiến hành vi vi phạm pháp luật của bạn mình:
“Em nghĩ có nhiều nguyên nhân nhưng theo em, yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất là do tâm sinh lý, tính cách của các bạn, chủ yếu tính cách của các bạn. Kiểu như là những bạn mà đánh nhau như thế thì tâm lý các bạn chưa vững lắm. Chẳng hạn, các bạn dễ bị kích động bởi một trong số những cái rất nhỏ nhặt, chỉ ánh mắt, lời nói thôi cũng bị kích động lên. Và các bạn có thể cũng bị các định kiến sai về tự tôn, tự trọng các thứ. Như chỉ nhìn đểu thôi, các bạn cũng nghĩ các bạn kia đang xúc phạm mình rồi. Thì có thể do bạn chưa thực sự tự tin lắm và lúc nào cũng nghĩ mọi người xấu hết. Vậy nên em nghĩ nguyên nhân chính nhất là do tính cách và bản thân bạn ý.”
(Phỏng vấn sâu, Nữ, 16 tuổi, học sinh, Gia Lâm, Hà Nội)
“Em nghĩ do ở tuổi mới lớn, các bạn đang trong giai đoạn trưởng thành, chưa đủ suy nghĩ chín chắn, chưa đủ kinh nghiệm nên có những hành động bồng bột, bộc phát. Ngoài ra, các yếu tố từ phía giáo dục của gia đình và nhà trường cũng là những yếu tố cực kỳ quan trọng dẫn đến hành vi sai lệch ở các bạn. Nhiều gia đình giáo dục con em chưa tốt, bố mẹ bận, không có thời gian dành cho con cái, không quan tâm đến hành vi và cảm xúc của con, không biết là con cái nghĩ gì, muốn gì, áp đặt suy nghĩ lên con cái, buộc con phải thế này, thế kia, làm cho con cái có hành động chống đối, phản kháng, con cái sống theo cảm xúc và suy nghĩ của mình.”
(Phỏng vấn sâu, Nam, 15 tuổi, học sinh, Tây Hồ, Hà Nội)
Ngoài nguyên nhân đến từ bản thân học sinh, gia đình, bạn bè và nhà trường, nhiều ý kiến cho rằng sự phát triển của mạng xã hội hiện nay cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật ở học sinh.
“Theo em Mạng xã hội cũng ảnh hưởng rất là nhiều bởi vì là bây giờ bạn nào cũng có smartphone hay là những tài khoản mạng xã hội. Việc các bạn tiếp xúc với mạng xã hội như thế nó chiếm rất nhiều thời gian trong ngày, vài tiếng hoặc là nhiều hơn. Những thông tin các bạn ý xem, kiểu như đã lỡ xem một hoặc một vài tin xấu thì nó sẽ lại đề xuất ra rất nhiều các tin xấu như thế. Tiếp xúc nhiều với các thông tin xấu, các bạn có thể học theo”
(Phỏng vấn sâu, Nam, 18 tuổi, học sinh, Nam Từ Liêm, Hà Nội)
Nguyên nhân khiến vị thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội có thể rất đa dạng và phức tạp xoay quanh trục nhận thức – thái độ – hành vi vị thành niên. Giống như các nghiên cứu trước đây đã phát hiện, gia đình không ổn định, thường xuyên xảy ra bạo lực, thiếu quan tâm và giáo dục có thể dẫn đến việc trẻ em phát triển quan niệm, hành vi lệch lạc, vi phạm. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng từ bạn bè, trường học và truyền thông có thể tạo ra áp lực hay việc lạm dụng chất kích thích, chất gây nghiện cũng có thể tác động tâm lý căng thẳng, lo âu, tức giận, bất ổn của vị thành niên và là nguyên nhân trực tiếp đẩy các em vào con đường vi phạm pháp luật, phạm tội…
3.2. Mô hình hồi quy đa biến về hành vi vi phạm pháp luật của nhóm học sinh cá biệt
Đối với nhóm học sinh cá biệt, nhóm nghiên cứu sử dụng 22 item được lựa chọn về các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội khác nhau, chúng tôi đã sử dụng hệ số kiểm định Anpha về tính cố kết và độ tin cậy của các item. Kết quả kiểm định chỉ ra hệ số Anpha khá cao với Anpha là 0,87 và Anpha tiêu chuẩn là 0,88 hệ số corected item của các biến quan sát đều lớn hơn 0,3 các kiểm định thống kê liên quan đều đạt ý nghĩa p<0,001 cho thấy thang đo đạt tiêu chuẩn tin cậy trong việc đo lường hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội của học sinh cá biệt.
Bảng 3.2. Mô hình hồi quy về yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi phạm pháp luật của học sinh cá biệt
|
Yếu tố |
Hệ số hồi quy B | ||||
| Mô hình
1 |
Mô hình
2 |
Mô hình
3 |
Mô hình
4 |
Mô hình
5 |
|
| Nhóm đặc điểm cá nhân | |||||
| Giới tính | 1,04*** | 1,13*** | 1,14*** | 1,14** | 1,10** |
| Tuổi | 0,65 | 1,36 | 1,35 | 1,26 | 1,21 |
| Kết quả rèn luyện | -0,16 | -0,51* | -0,43 | -0,37 | -0,24 |
| Kết quả học tập | -0,39 | 0,11 | 0,04 | 0,12 | 0,18 |
| Nhóm đặc điểm gia đình | |||||
| Mô hình gia đình | -0,70 | -0,54 | -0,36 | 0,35 | |
| Nghề của bố | -0,67 | -0,41 | -0,18 | -0,21 | |
| Nghề của mẹ | -0,01 | -0,11 | -0,34 | -0,14 | |
| Kinh tế gia đình | -0,05 | 0,13 | 0,01 | 0,06 | |
| Mối quan hệ gia đình | 1,24* | 1,20* | 0,69 | 0,57 | |
| Sự quan tâm của gia đình | 0,08 | 0,08 | 0,13 | 0,16 | |
| Ảnh hưởng của gia đình đền các quyết định của trẻ | 0,15 | 0,18 | 0,16 | 0,21 | |
| Nhóm đặc điểm tâm lý | |||||
| Áp lực từ thầy cô | 0,33 | 0,35* | 0,26 | ||
| Áp lực từ bạn bè | -0,08 | -0,16 | -0,07 | ||
| Áp lực từ gia đình | -0,07 | -0,03 | -0,003 | ||
| Áp lực từ hoạt động cá nhân | 0,10 | 0,12* | 0,11 | ||
| Áp lực dùng Internet | -0,17 | -0,20 | -0,16 | ||
| Nhận thức | |||||
| Hiểu biết pháp luật | -0,03 | -0,01 | 0,02 | ||
| Hoạt động thực tiễn | |||||
| Hành vi tích cực trong thời gian rảnh | -0,11** | -0,13*** | |||
| Thời gian học ở nhà | -0,16 | -0,25 | |||
| Thời gian lao động, làm việc | 0,08 | 0,11 | |||
| Thời gian nghỉ ngơi | 0,004 | 0,01 | |||
| Thời gian giao tiếp với bạn bè | 0,28 | 0,22 | |||
| Thời gian vui chơi giải trí | -0,01 | 0,02 | |||
| Thần tượng và mối quan hệ xã hội | |||||
| Có thần tượng | 1,21* | ||||
| Hành vi tốt làm theo thần tượng | -0,21* | ||||
| Hành vi xấu làm theo thần tượng | 0,17* | ||||
| Có nhiều bạn bè | 0,63 | ||||
| Tiêu chí chọn bạn chưa tích cực | 0,16 | ||||
| Ảnh hưởng của thầy cô đến quyết định | 0,88 | ||||
| Ảnh hưởng của bạn bè đến quyết định | -0,24 | ||||
| Thừa số | 6,77*** | 2,87** | 2,33** | 2,28** | 2,12** |
| R2 | 0,12 | 0,17 | 0,21 | 0,29 | 0,37 |
( * P < 0,05 ; ** P < 0,01 ; *** P < 0,001)
Nguồn: Số liệu khảo sát của đề tài mã số: CT09/03-2022-3
Kết quả nghiên cứu cuối cùng ở mô hình 5 (bảng 3.2) với sự tổng hợp của các biến số độc lập được đưa vào mô hình cho thấy có sự tồn tại mối quan hệ tuyến tính giữa các đặc điểm học sinh cá biệt với nhận thức của các em về vi phạm pháp luật và phạm tội vị thành niên. Các biến số độc lập có thể giải thích được 37% sự biến thiên trong hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội vị thành niên. ở mức ý nghĩa thống kê 0,001.
Kết quả bảng 3.2 cho thấy giới tính có mối quan hệ tuyến tính với hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội khi nhóm nam có xu hướng phạm tội hơn so với nhóm nữ ở mức ý nghĩa thống kê 0,001. Bên cạnh đó các đặc điểm cá nhân và gia đình không có mối quan hệ tuyến tính với hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội ở vị thành niên trong mô hình 5.
Về hoạt động thực tiễn, học sinh cá biệt sử dụng thời gian rỗi cho các hoạt động tích cực ít vi phạm pháp luật, phạm tội hơn hơn nhóm sử dụng thời gian rỗi cho các hoạt động tiêu cực ở mức ý nghĩa thống kê 0,001. Bên cạnh đó trong các mối quan hệ xã hội, kết quả phân tích hồi quy cho thấy những tác động của xã hội tới hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội ở vị thành niên khá mạnh trong tiêu chí thần tượng. Học sinh cá biệt có thần tượng, có nguy cơ vi phạm pháp luật cao hơn nhóm không có thần tượng, đồng thời nhóm có hành vi tốt làm theo thần tượng thì ít nguy cơ vi phạm pháp luật, phạm tội hơn nhóm học theo hành vi xấu của thần tượng. Điều này hoàn toàn phù hợp lý thuyết giải thích hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội dựa trên nguyên tắc “học xã hội”. Các chỉ báo này đều có ý nghĩa thống kê ở mức 0,05.
Như vậy trong phân tích ban đầu về các mô hình hồi quy đa biến cho thấy nhiều các biến số không đạt ý nghĩa thống kê tuy nhiên kết quả số liệu cũng khẳng định trong các nhóm biến số đều có những đặc điểm khác nhau quan hệ tuyến tính với hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên cả 2 nhóm học sinh và học sinh các biệt. Đây cũng là những phát hiện quan trọng để chúng ta tiếp tục có những nghiên cứu, kiểm định và phân tích chuyên sâu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vi phạm pháp luật của vị thành niên hiện nay.
Một số kết luận và khuyến nghị
Nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam cho thấy trong giai đoạn phát triển vị thành niên, một số người có hành vi lệch chuẩn, vi phạm pháp luật và phạm tội là hiện tượng vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội, có nguồn gốc lịch sử lâu đời trong đó các yếu tố sinh học, xã hội như đặc điểm cá nhân, môi trường sống, mối liên hệ xã hội, các chính sách và thể chế pháp luật tác động trực tiếp đến các chủ thể trong nhận thức và thực hiện hành vi hành vi lệch chuẩn, vi phạm pháp luật và phạm tội.
Tháng 3/2021, Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội đã ban hành kế hoạch “Phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi giai đoạn 2021-2025” chỉ ra những định hướng rõ ràng trong việc phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm ở tuổi vị thành niên ở Hà Nội trong giai đoạn hiện nay và những năm tới đây.
Về các quan điểm, nhóm nghiên cứu cho rằng cần giáo dục phòng ngừa sớm, phòng ngừa từ xa, “xây” trước, “chống” sau đối với vấn đề vị thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội, cần găn giáo dục với phát triển vị thành niên toàn diện, phải huy động mọi nguồn lực và xây dựng cơ chế tham gia đa chủ thể trong giáo dục vị thành niên, tiếp tục xây dựng cơ sở khoa học cho giáo dục trên tinh thần nhìn nhận, đánh giá vấn đề tội phạm vị thành niên một các toàn diện và sâu rộng hơn và tiếp tục tăng cường kết hợp các hoạt động giáo dục phòng ngừa với công tác đấu tranh, xử lý tội phạm vị thành niên.
Về giải pháp, nhóm nghiên cứu đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn bao gồm: Tăng cường triển khai hiệu quả các giải pháp giáo dục phòng ngừa cho vị thành niên trong nhà trường, Củng cố các mối quan hệ gia đình, nâng cao vai trò, trách nhiệm gia đình trong giáo dục phòng ngừa cho vị thành niên, Tăng cường sự tham gia, phối hợp, liên kết giữa chính quyền, Đoàn, Hội Đội, các cơ sở giáo dục, gia đình và cộng đồng trong tổ chức các hoạt động giáo dục vị thành niên.
Về khuyến nghị, đối với Ủy ban nhân dân thành phố, cần tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo các Sở, Ban, ngành trong việc phối hợp, thực hiện các chương trình, kế hoạch của UBND TP. Hà Nội về phòng ngừa vị thành niên vị thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội và phát triển thanh niên tích cực. Ban hành các văn bản giao nhiệm vụ cụ thể cho các Sở, Ban, ngành các nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể.
Tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch phòng ngừa vi phạm pháp luật, phạm tội vị thành niên. Biểu dương các cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các chỉ tiêu. Chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông của Hà Nội, tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả của các sản phẩm truyền thông, đổi mới nội dung, phương thức truyền thông hướng đến nâng cao hiểu biết pháp luật, trang bị các kỹ năng phòng ngừa vi phạm pháp luật, phạm tội cho vị thành niên và gia đình.
Bố trí các nguồn lực cần thiết cho công tác phòng ngừa tội phạm vị thành niên đặc biệt về mặt kinh phí. Huy động các nguồn lực xã hội tích cực tham gia vào công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên. Xây dựng cơ chế phối hợp với doanh nghiệp trong việc chủ động tạo việc làm cho vị thành niên vi phạm pháp luật sau khi hết thời gian cải tạo, tái hoà nhập cộng đồng. Cần nghiên cứu, ban hành cách chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như giảm thuế cho các doanh nghiệp này.
Tăng cường chỉ đạo, tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là kinh nghiệm quốc tế, các mô hình thành công của các nước trên thế giới trong công tác phòng ngừa vị thành niên vi phạm pháp luật có khả năng áp dụng cho Hà Nội. Nghiên cứu, tổ chức, thực hiện các mô hình mới có tính đột phá cho Hà Nội như: quản lý, theo dõi các gia đình có tiền sử phạm tội, chuyển đổi số trong công tác phòng chống vi phạm pháp luật, phạm tội của vị thành niên…Tăng cường cung cấp dich vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý cho gia đình. Tăng cường sự tham gia của gia đình nhằm ngăn ngừa vị thành niên vi phạm pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chauhan. A, Vivek Shukla, Ankesh, Mansi Sharma. 2023. Julenile delinquency in India, International Journal of Health Science, Vol 6. No.S4.
- Cloward. R.A, Lloyd E. Ohlin. 1966. Delinquency and Opportunity: A Theory of Delinquent Gangs, Free Pr, ISBN 9780029055908
- Dong.J. 2023. Analysis Of Economic Factors in Juvenile Delinquency. Proceedings of the International Conference on Social Psychology and Humanity Studies. 14 September 2023.
- Gottfredson, M., T. Hirschi. 1990. A General Theory of Crime, Stanford University Press.
- 5. Hester. S, Eglin, P. 1992. A Sociology of Crime, London, Routledge.
- Kostyuk. M.F, Plekhanov, Elena Vladimirovna Kunts. 2022. The Impact of Deviant Behavior on Juvenile Delinquency: Current State of the Problem, Humani. Law Journal, Vol 11 No 1 Ius.
- Liang.J, Tianjiao Peng. 2023. Research on Juvenile Delinquency in a Transitional Society.
Journal of Education, Humanities and Social Sciences. - Đặng Vũ Cảnh Linh. 2004. Vị thành niên và chính sách với vị thành niên. NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
- Lyu.P.2023. Research on Crime Prevention and Policy Support for Youth at Risk, 5 th international symposium on social science and management innovation
- Matza. D. 1990. Delinquency and Drift. Taylor & Francis Ltd, ISBN 9780887388040
- Reckless, W. 1973. Crime problem, Prentice Hall ISBN 10 0131927817
ISBN 13
- Siegel, L.J. 2003. Criminology, 8th edition, Thomson-Wadsworth. p. 7
- Sutherland. E. 1978. Criminology,Lippincott, ISBN 10 0397473842
- Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội. 2021. Kế hoạch “Phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi giai đoạn 2021-2025”.
- 15. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. 2021. Kế hoạch thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn Thành phố năm 2021, số 255/KH-UBND, ngày 30/12/2020.
- Wan. M, Ziyi Song. 2023. Research on Preventing and Correcting Juvenile Delinquency. Humanities and Social Sciences (ISSN: 2710-0170) Vol. 3 No. 12 (2023)
Đặng Vũ Cảnh Linh, bài đăng trên Tạp chí Xã hội học số tháng 1/2025
