Kinh nghiệm của một số nước về công tác chăm sóc người cao tuổi (người cao tuổi và mô hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi phần III)

Trên thế giới hiện nay, các quốc gia ngày càng quan tâm hỗ trợ và có những chính sách đặc biệt nhằm đảm bảo các hoạt động chăm sóc người cao tuổi. Chăm sóc người cao tuổi không còn là vấn đề riêng biệt và gói gọn trong phạm vi mỗi cộng đồng, quốc gia mà ngày càng được liên kết, mở rộng, trở thành một vấn đề mang tính chất toàn cầu. Ở nhiều nước hiện nay, người cao tuổi đã được coi như một nguồn lợi quí giá chứ không phải là gánh nặng cho xã hội, vì người cao tuổi sẽ tiếp tục đóng góp nhiều cho đất nước bằng những kiến thức, kinh nghiệm của họ. Căn cứ trên quan niệm đó, Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi toàn thế giới lưu tâm tới những khó khăn của người cao tuổi, đồng thời cũng đề nghị nhiều chương trình để đảm bảo sự an toàn về kinh tế, xã hội của nhóm người quan trọng này, cũng như việc tạo cơ hội cho họ đóng góp vào sự phát triển của quốc gia.

Trong những nguyên tắc cơ bản để giúp đỡ người cao tuổi, Liên Hiệp quốc đã khẳng định những luận điểm quan trọng như: Họ phải có cơ hội được sử dụng dễ dàng về thực phẩm, nước uống, nhà ở, chăm sóc y tế, việc làm và có một đời sống an toàn; họ phải được sử dụng các dịch vụ pháp lý; phải được sống trong vinh dự; không bị khai thác, lợi dụng và được đối xử bình đẳng.

Khuyến cáo của Liên Hiệp Quốc về chăm sóc sức khoẻ người già: Đại hội đồng Thế giới về tuổi già tại thủ đô Viên, Áo năm 1982 đã thông qua khuyến cáo của Liên Hiệp Quốc về chương trình hành động Quốc tế chăm sóc người cao tuổi. Đó là chương trình dài hạn với 6 vấn đề khác nhau (sức khoẻ, ăn uống, nhà ở và môi trường; gia đình và bảo trợ xã hội; việc làm; giáo dục). Một số nội dung chính trong 18 điều khuyến cáo về sức khoẻ và ăn uống của người cao tuổi được đặt ra như sau:

– Bảo vệ sức khoẻ người già không chỉ chữa bệnh mà cả hạn chế tàn tật, phục hồi chức năng, đảm bảo tinh thần thoải mái, cần sự phối hợp giữa ngành y tế, xã hội, gia đình.

– Cần quan tâm đến người già trong hoàn cảnh khó khăn

– Khuyến khích chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng, hướng dẫn người già tự chăm sóc sức khoẻ của mình theo phương pháp khoa học và tham gia các hoạt động xã hội cùng với người cùng tuổi.

– Toàn dân, đặc biệt là những cán bộ chuyên ngành cần có kiến thức tối thiểu về lão khoa, kỹ thuật chăm sóc sức khoẻ và tâm lý người già.

– Đảm bảo sự hợp tác, tự nguyện của người già, chỉ có người già mới biết họ cần những gì, định kì kiểm tra sức khoẻ người già.

– Phát triển các dịch vụ chăm sóc, tư vấn sức khoẻ người già (Nhà nước, tư nhân, trung tâm chăm sóc ban ngày, ban đêm, tại gia đình)

– Người già cần được biết thông tin về chế độ ăn uống phù hợp với sức khoẻ người già

– Thực hiện biện pháp ngăn ngừa tai nạn ở gia đình, cộng đồng

– Đảm bảo đầy đủ đồ dùng, tiện nghi cho người già tại gia đình, tạo điều kiện cung cấp máy trợ thính, kính, răng giả. (1)

Trước khuyến cáo của Liên Hợp Quốc về vấn đề chăm sóc người cao tuổi, rất nhiều quốc gia đã và đang có sự nỗ lực cố gắng để ngày càng hoàn thiện cơ cấu chính sách an sinh xã hội giành cho người cao tuổi và đặc biệt là khuyến khích phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ chăm sóc người cao tuổi ở đất nước mình.

Ngày 8 tháng 4 năm 2002 tại Madrid, Tây Ban Nha, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc quyết định triệu tập Hội nghị thế giới lần thứ 2 về già hoá dân số, để tổng kết những kết quả của Hội nghị thế giới lần thứ nhất và thông qua Kế hoạch hành động quốc tế về người cao tuổi 2002. Tuyên bố chính trị của Hội nghị bao gồm 19 điều trong đó tại điều thứ 14 có nêu rõ: “Chúng tôi khẳng định lại rằng việc đạt tới trình trạng sức khoẻ tốt nhất là một mục tiêu quan trọng hàng đầu của cả thế giới. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi hành động của nhiều ngành kinh tế, xã hội khác cùng với ngành y tế. Chúng tôi cam kết sẽ bảo đảm cho người cao tuổi được tiếp cận bình đẳng và đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, bao gồm cả các dịch vụ sức khoẻ thể chất và tinh thần và thừa nhận rằng các nhu cầu gia tăng của sự già hoá dân số đòi hỏi phải có những chính sách bổ sung, đặc biệt là chính sách chăm sóc và điều trị.” (2)

Tuy nhiên, không giống với các vấn đề mang tính toàn cầu khác như môi trường và xoá đói giảm nghèo, vấn đề già hoá thường ít nhận được sự quan tâm xứng đáng. Ngày nay, người cao tuổi bị xem là một gánh nặng nhiều hơn được coi là nguồn tài sản vô giá. Những kỹ năng, kinh nghiệm, kiến thức và sự từng trải của người cao tuổi được phát huy, sử dụng đúng và có hiệu quả sẽ tham gia đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, giúp ích cho cả người cao tuổi cũng như toàn xã hội, đặc biệt đối với các nền kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI[1].

Do tích luỹ phúc lợi xã hội cao, các nước phát triển từ những thập niên cuối thế kỷ 20 đã tăng cường các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi dưới các hình thức xây dựng các trung tâm dưỡng lão, duy trì sức khoẻ và phát huy khả năng lao động, khai thác kinh nghiệm nhiều mặt của người cao tuổi để tiếp tục đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các nước Bắc Âu và Tây Âu là những quốc gia đi trước và những năm gần đây các quốc gia “Con rồng Châu Á” cũng đang có xu hướng gia tăng loại hình dịch vụ này. Nhật Bản là một ví dụ điển hình, với đặc thù địa lý khó khăn và sẵn tiềm năng kinh tế, Nhật Bản đã và đang xuất khẩu mô hình “Trung tâm dịch vụ chăm sóc người cao tuổi” bằng cách tổ chức đưa người già sang các các nước khác để thực hiện việc chăm sóc với lý do tiết kiệm chi phí. Hiện nay, Nhật Bản đang có xu hướng đầu tư mạnh hơn mô hình này ở các nước Châu Á, đặc biệt đối với Việt Nam được họ quan tâm hơn vì lợi thế về kinh tế và mức độ an toàn xã hội.

Dưới đây là kinh nghiệm chăm sóc người cao tuổi ở một số nước có hệ thống chăm sóc người cao tuổi phát triển và điền hình trên thế giới:

Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu

Hiện nay ở các nước Phương Tây, phần đông người già đều đến Viện dưỡng lão miễn phí. Chi phí từ nguồn quỹ phúc lợi và bảo hiểm cho người già, ở đó có cuộc sống đầy đủ tiện nghi như: Vườn hoa, phòng thể dục, phòng đọc sách. Thường xuyên tổ chức sinh hoạt tập thể và khám sức khoẻ định kỳ. Vật chất đầy đủ, nhưng do con cái ít viếng thăm, nên các cụ vẫn cảm thấy cô đơn.

Mạng lưới y tế chăm sóc người cao tuổi ở Pháp và Thụy Điển:

– Chăm sóc tại nhà: Do gia đình đảm nhiệm hoặc do y tế cơ sở đảm nhiệm, hoặc phối kết hợp cả hai.

– Vào viện tại nhà: Chăm sóc y tế như ở bệnh viện, các bệnh viện tham gia.

– Các trung tâm trong ngày: Chăm sóc người già ban ngày về các phương diện: Chẩn đoán bệnh, chăm sóc y tế ở mức độ thấp (như vật lý trị liệu, tâm lý trị bệnh, châm cứu); bệnh viện ban ngày: Bệnh nhân nhập viện ban ngày để chẩn đoán và điều trị ở mức cao nhưng không cần theo dõi ban đêm, sáng hôm sau lại nhập viện để tiếp tục điều trị.

Các khoa điều trị người già: Các bệnh viện cấp tỉnh, các bệnh viện trung hạn, các bệnh viện mãn tính (ban đêm).

– Các nhà dưỡng lão

– Các nhà cho những người về hưu

– Các hoạt động xã hội: Các tổ chức hảo tâm tổ chức du lịch, giải trí.

– Các trường học cho người già thức tỉnh và nâng cao trí tuệ

Nhìn chung, xu hướng của thế giới hiện nay là đưa về chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng, nghĩa là tại gia đình, để người già có được sự quan tâm chăm sóc và tình cảm của cả gia đình và xã hội. Nhưng xu hướng này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có trình độ cao về mạng lưới y tế gia đình, nhà ở, giao thông và trình độ kinh tế.

Mô hình chăm sóc người cao tuổi ở Pháp và Thụy Điển:

Hệ thống an sinh xã hội giành cho người cao tuổi ở Đức:

Đến cuối thế kỷ XIX, ở Đức, các hình thức bảo hiểm mang tính bắt buộc được mở rộng trong các trường hợp tai nạn lao động, tuổi già, tàn tật với sự tham gia đóng góp của ba bên người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Bên cạnh đó, các dịch vụ chăm sóc xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ chăm sóc người già, bảo vệ trẻ em từng bước được mở rộng.

Kinh nghiệm của Mỹ

Ở Mỹ có viện dưỡng lão tư nhân dành cho giới trung lưu (có đóng tiền) do các tổ chức phi Chính phủ tổ chức. Đó là những khu nhà hoặc Thành phố dành riêng cho người già, được thiết kế đẹp đẽ và kiến trúc phù hợp với người cao tuổi. Ở đây, các cụ có thể chọn người chăm sóc cho riêng mình.

Hệ thống an sinh xã hội của Mỹ cũng có nhiều ưu đãi đối với nhóm người cao tuổi như:

Năm 1965, Chính phủ Mỹ đã tổ chức thực hiện chương trình công khai với người cao tuổi có tên là: Medicare. Đây là một loại bảo hiểm quốc gia cho người từ 65 tuổi trở lên, một số người dưới 65 tuổi mà bị tàn tật và bệnh nhân bị thận suy ở giai đoạn cuối, cần lọc máu và thay thận. Số người hưởng thụ lên đến 40 triệu.

Trong suốt thời gian thực hiện chương trình này, Medicare đã được điều chỉnh hàng năm để đáp ứng nhu cầu của người già, cũng như tuỳ theo ngân sách quốc gia. Ví dụ như cứ vào tháng 11 hàng năm, các cụ đều nhận được một cuốn chỉ nam về các thay đổi dịch vụ chăm sóc cho năm tới.

Tháng 3 năm 2003, Tổng thống Bush đã chuyển cho quốc hội bản đề nghị cải cách Medicare bao gồm những điểm chính như sau:

1- Trợ cấp bồi hoàn dược phẩm: Người có Medicare trả mỗi tháng 35 đồng tiền thuốc, 250 đô hàng năm, sau đó, chương trình sẽ trả 75% cho tới 2250 đô mỗi năm. Nếu dùng từ 2251- 5100 đô, thì bệnh nhân phải trả hết, nhưng chi phí quá 5100 đô thì Medicare trả cho 95%.

2- Trả tiền khám bệnh lần đầu cho người mới được hưởng Medicare cũng như kiểm soát xem có bị tiểu đường, bệnh tim mạch hay không.

3- Cho phép dược phẩm Generic chung được bào chế sớm để giảm giá thuốc, cấm nhập cảng thuốc từ nước khác.

4- Tăng tiền y phí cho các bác sĩ điều trị người già.

5- Tăng tiền cho các bệnh viện chữa bệnh nhân nghèo

Có thể thấy sự quan tâm của chính phủ và những chính sách an sinh với người cao tuổi đã được làm khá tốt ở Mỹ, đặc biệt là những vấn đề trong chăm sóc y tế đối với người cao tuổi (3)

Kinh nghiệm của Nhật Bản

Dân số Nhật Bản trong những năm cuối thế kỷ XX đã già nhanh bởi sự giảm sút về tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử vong. Dân số già tăng nhanh chóng ở quốc gia này đang đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản phải có hệ thống chính sách, quản lý phù hợp để giải quyết tình hình dân số già. Đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khoẻ người già.

Bộ Y tế và phúc lợi Nhật Bản đã đề ra chế độ giảm bớt số bệnh nhân cao tuổi sau 3 tháng nằm viện, các bệnh viện sẽ có được mặt bằng tỷ lệ những người điều trị. Sau 3 tháng, những bệnh nhân cao tuổi sẽ lại được chuyển tiếp tới những bệnh viện tiếp theo, và ở đó hơn 3 tháng.

Hiện nay, việc chăm sóc người cao tuổi ở Nhật Bản có sự hỗ trợ những người già có thể sống tự lập dựa vào sự lựa chọn của chính họ. Việc chăm sóc người cao tuổi không chỉ giới hạn ở chăm sóc về thể chất, giúp đỡ những người già yếu tham gia vào các hoạt động cộng đồng, để sống độc lập, và tránh nằm liệt giường.

Những điểm chính trong hệ thống dịch vụ chăm sóc người cao tuổi của Nhật bản:

– Người già tự lựa chọn:

Người cao tuổi tự lựa chọn và quyết định rằng họ sẽ sử dụng dịch vụ nào. Do đó, theo nguyên tắc, có mối quan hệ khế ước giữa người già và các hãng cung cấp dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, trong những trường hợp người già bị ngược đãi, hoặc họ không có khả năng quyết định, thì chính quyền địa phương nên có các biện pháp để bảo vệ người già. Để việc lựa chọn được đảm bảo phải thực hiện các yêu cầu sau:

+ Phổ biến rộng rãi các dịch vụ: Tất cả người già cần được sự chăm sóc, không có thu nhập và điều kiện sống ổn định có thể được nhận dịch vụ này.

+ Dịch vụ này được thực hiện một cách công bằng: Việc thanh toán được trả một cách công bằng ngay cả khi họ nhân được dịch vụ này ở những nơi khác nhau hoặc những cơ quan khác nhau.

+ Sự thuận lợi của những dịch vụ này là: Nội dung và chất lượng của dịch vụ được đánh giá một cách hợp lệ.

+ Đặc điểm của những dịch vụ này là: Những thông tin xác đáng cần phải đưa đến cho những người cần những dịch vụ này. Đây nên là một hệ thống mà trong đó các chuyên gia có thể giúp đỡ người cao tuổi và gia đình họ.

– Sự lồng ghép, phối hợp giữa các dịch vụ:

+ Dịch vụ chăm sóc tại nhà: Y tế, khám sức khoẻ và các dịch vụ phúc lợi được cung cấp một cách riêng biệt thì nên được lồng ghép.

+ Việc cứu tế: Nên loại bỏ việc thanh toán ngược nhau giữa các viện cứu tế và các viện cứu tế khác nhau nên từng bước một được lồng ghép trong cùng một hệ thống.

Ngoài ra trong hệ thống dịch vụ chăm sóc người cao tuổi ở Nhật Bản còn có các hoạt động khác như thiếp lập ban quản lý các dịch vụ chăm sóc, vấn đề bảo hiểm xã hội cho chăm sóc người già… Trên thực tế cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi ở Nhật Bản ngày càng được mở rộng về loại hình và tư nhân hoá hơn. Tại một số nơi chính quyền địa phương giao phó cho khu vực kinh tế tư nhân thực hiện các dịch vụ chăm sóc tại nhà, bởi vì nó hiệu quả hơn và rẻ hơn so với dịch vụ mà những người lao động chính quyền thực hiện.

Mặc dù phần lớn là các dịch vụ vẫn đắt đỏ, chính vì thế, sự giúp đỡ của Chính phủ là rất cần thiết. Ở Nhật Bản, đơn vị của các dịch vụ xã hội là hộ gia đình hơn là cá nhân. Do đó, việc lựa chọn để nhận các dịch vụ hoặc thanh toán cho các dịch vụ được dựa trên thu nhập của hộ gia đình. Trong trường hợp chăm sóc người cao tuổi, sẽ tính đến thu nhập của con cái họ. Hệ thống chăm sóc người cao tuổi mới của Nhật đã đề cập một cách rõ ràng một nguyên tắc là mọi người có thể nhận dịch vụ bất cứ khi nào họ cần không kể đến thu nhập hoặc mức sống.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Lịch sử lâu đời ở Trung Quốc đã cho thấy truyền thống kính trọng người cao tuổi của nước này. Ngày nay, trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của Trung Quốc đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi ở gia đình và cộng đồng. Nhiều điều khoản trong Hiến pháp Trung Quốc đã quy định sự trợ cấp về vật chất từ phía Nhà nước và xã hội khi người dân đến tuổi già cả, ốm đau và bệnh tật. Chính phủ đã tăng cường các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, và những dịch vụ y tế để mọi người dân đều có khả năng hoà nhập vào hệ thống này. Hiến pháp cũng đã ghi rõ rằng, con cái phải có trách nhiệm giúp đỡ và trợ giúp cho cha mẹ của mình. Mọi sự ngược đãi đối với người cao tuổi đều bị pháp luật ngăn cấm.

Theo quy định của pháp luật, tại Trung Quốc, nhân viên Chính phủ, nam giới về hưu ở tuổi 60 và phụ nữ về hưu ở lứa tuổi 55. Người làm việc trong những nhà máy công nghiệp nặng và những công việc nặng nhọc, nam giới có thể về hưu ở tuổi 55 và nữ giới ở tuổi 50. Những công nhân về hưu được nhận 75% lương của họ nếu như họ làm việc từ 20 năm trở lên. Rất nhiều người về hưu ở nông thôn thích làm công việc nhẹ nhàng để có thêm thu nhập cho bản thân mình. Hệ thống trách nhiệm đã được thực hiện là một sự tiến bộ và cải thiện lớn kế sinh nhai của những người cao tuổi sống ở nông thôn. Những người không có thu nhập ở thành phố và địa phương thì có sự đảm bảo kế sinh nhai từ phía tập thể. Ở nhiều Thành phố, Ủy ban phường đã tổ chức chăm sóc những người cao tuổi đang có nhiều khó khăn trong các cơ sở tự nguyện. Thậm chí một số người trong số họ đã nhận được sự trợ giúp hoàn toàn.

Ngoài ra, nhiều trường học dân lập dành cho những người đến 70 tuổi đã được thành lập. Sau này, người ta đã đổi thành những trung tâm hoạt động dành cho người cao tuổi. Nhiều hoạt động giải trí cho người cao tuổi đang sử dụng một số hình thức phù hợp với đặc điểm của người cao tuổi và giúp cho họ có được một cuộc sống hạnh phúc. Bên cạnh đó các chương trình rèn luyện sức khoẻ để làm chậm lại quá trình lão hoá và tăng thêm tuổi thọ đã được người cao tuổi hoan nghênh và nhiệt tình tham gia.

Nhiều bệnh viện tại Trung Quốc đã làm sự chăm sóc đặc biệt cho những người cao tuổi. Hình thức “Sự chăm sóc tại nhà” với sự thăm bệnh thường xuyên của các bác sĩ cho người cao tuổi có bệnh mãn tính cũng được biến thành rộng rãi. Nhiều bệnh viện đã phổ biến những tri thức cơ bản để chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi, nhiều địa phương đã có những câu lạc bộ và trung tâm vui chơi giải trí cho người cao tuổi.

Kinh nghiệm của Singapore

Tại Singapore, ngay từ những năm 1980, Chính phủ đã quan tâm đến vấn đề già hoá dân số và tỷ lệ gia tăng của người cao tuổi trong cộng đồng. Năm 1988, Hội đồng tư vấn quốc gia về già hoá đã được hình thành để đảm nhận việc xem xét toàn diện về già hoá tại Singapore. Một trong những kiến nghị chính được đề xuất bởi Hội đồng tư vấn là thành lập Hội đồng quốc gia về già hoá. Bên cạnh đó, nhiều đề xuất khác cũng được đưa ra như nâng tuổi nghỉ hưu từ 55 lên 60, mở rộng các chương trình giáo dục công cộng cho người cao tuổi, giao đất cho các tổ chức phi Chính phủ để xây dựng nhà ở cho người cao tuổi, nghiên cứu tính khả thi của việc cung cấp các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ cho những người cao tuổi ốm yếu tại gia đình và giảm thuế đối với những người chăm sóc người cao tuổi.

Để đáp ứng những thách thức của vấn đề già hoá dân số, hai chính sách đã được triển khai dự báo liên quan đến chăm sóc y tế và xã hội cho người cao tuổi. Bên cạnh đó các nhóm cộng đồng và Uỷ ban đặc biệt của Quốc hội đã đưa ra một luật quan trọng có tên gọi hoạt động nuôi dưỡng cha mẹ năm 1995. Sau nhiều cuộc tranh cãi, sự tán thành của công chúng đối với luật này bắt buộc nghĩa vụ về mặt pháp luật đối với con cái trong việc chăm sóc cha mẹ. Đó là một chính sách xã hội liên quan đến việc phòng chống và những vấn đề liên quan đến sự khước từ cha mẹ của con cái.

Trong số các nội dung của chính sách đối với các dịch vụ cho người cao tuổi ở Singapore, Chính phủ đã áp dụng nguyên tắc “Cùng chi trả”. Nguyên tắc này được áp dụng cho kế hoạch tiết kiệm y tế, một kế hoạch tiết kiệm y tế bắt buộc theo đề mục của quỹ tiết kiệm Trung ương và hệ thống an ninh xã hội Singapore. Một cá nhân có thể sử dụng khoản tiết kiệm y tế của mình chi trả viện phí của bản thân họ cũng như cha mẹ của họ. Phạm vi của các khoản phí là căn cứ theo thu nhập đối với các dịch vụ dựa vào cộng đồng như các dịch vụ chăm sóc tại gia đình, chăm sóc hàng ngày và phục hồi. Những người nhận được sự giúp đỡ công cộng, kế hoạch hỗ trợ về tài chính nhằm vào những người cao tuổi trong tình trạng thiếu thốn cùng cực, ốm yếu hoặc tàn tật và được chi trả bởi Bộ Thể thao và Phát triển cộng đồng, được quyền cung cấp miễn phí các dịch vụ y tế tại những phòng khám của Chính phủ. Mọi công dân Singapore từ 60 tuổi trở lên đều nhận được khoản tiền trợ cấp bằng 75% các khoản phí chi trả tại phòng khám.

Mô hình hiện tại trong việc chăm sóc người cao tuổi tại Singapore là sự chung sức giữa Chính phủ, cộng đồng và gia đình. Chính phủ và cộng đồng hy vọng giúp đỡ các gia đình có người cao tuổi nhằm giảm thiểu những áp lực trong việc chăm sóc người cao tuổi của thành viên trong gia đình. Chính phủ Singapore đã thiết kế một hệ thống trợ cấp về giường bệnh theo mức bệnh nhân thuộc loại C sẽ nhận được 80% khoản trợ cấp; bệnh nhân thuộc loại B2 nhận được 65% và loại B1 nhận được 20%. Khoản trợ cấp đối với giường bệnh tại gia đình đã được xem xét lại theo những kiến nghị trong báo cáo của Uỷ ban các bộ trưởng về chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi năm 1999. Nguyên tắc được thông qua Chính phủ là mỗi cá nhân có trách nhiệm duy trì sức khoẻ và phúc lợi và nên tiết kiệm trong những lúc thiếu thốn. Nếu những người này ốm yếu, gia đình nên giúp đỡ, chính phủ sẽ chỉ là giải pháp cuối cùng. Do vậy, một khoản kinh phí lớn đã được Chính phủ dành cho giáo dục y tế công cộng dài hạn.

Một khía cạnh khác là chăm sóc y tế của khu vực tư nhân, lĩnh vực mà Chính phủ đang chú ý, được trợ cấp trong việc khám sức khoẻ cho người cao tuổi. Đối với một khoản phí nhỏ không đáng kể ở mức 5 đôla Singapore, một cá nhân từ 60 tuổi trở lên có thể có được việc kiểm tra sức khoẻ cơ bản. Dịch vụ này đã được đẩy mạnh bởi Bộ Y tế trong việc sử dụng những tổ chức có liên quan như các trung tâm hoặc các câu lạc bộ cộng đồng. Trong khi một số các dịch vụ có sẵn, sự không tương xứng, phân phối không công bằng theo vùng địa lý và không đầy đủ cho thấy còn có những vấn đề, nhu cầu của các chương trình hỗ trợ để giúp đỡ gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi. Các chương trình này có thể bao gồm việc cung cấp các bữa ăn, giúp đỡ qua điện thoại và thuê các thiết bị. Sự liên tục trong việc chăm sóc người cao tuổi ốm yếu là mục tiêu của chính sách của chính phủ đối với người cao tuổi, mặc dù vẫn chưa đạt tới hoàn thiện.

Một áp lực đối với các cơ sở chăm sóc dài ngày tại Singapore do số lượng người cao tuổi không được chăm sóc bởi gia đình họ. Theo điều tra quốc gia về người cao tuổi năm 1995 thì 86,2% người cao tuổi sống với con cái của họ, giảm 5% so với năm 1983. Cuộc điều tra cũng cho thấy khoảng 3,1% người cao tuổi sống độc thân và 5,2% người cao tuổi chỉ sống với bạn đời của mình. Theo tổng điều tra dân số Singapore năm 2000 cho thấy sự gia tăng số hộ gia đình chỉ có người cao tuổi từ 1,8% năm 1990 lên 2,8% năm 1999. Đồng thời với sự gia tăng này là giảm số hộ đông người hoặc đa thế hệ từ 6,7% xuống còn 5,6%. Số hộ chỉ có một người tăng từ 5,2% năm 1990 lên 8,2% năm 1999. Sự gia tăng của số hộ chỉ có người cao tuổi là vấn đề của xã hội, yếu thế dẫn đến trầm cảm và tự tử cũng như khả năng ít hiệu quả việc điều trị trong thời kỳ khủng hoảng. Trong khi một người cao tuổi khoẻ mạnh không gặp khó khăn trong việc sống độc lập thì những người cao tuổi ốm yếu lại cần đến sự trợ giúp. (4)

Vấn đề tài chính của chăm sóc dài hạn là một lĩnh vực phức tạp bởi vì nó đan xen với hệ thống cung cấp chăm sóc y tế tổng thể. Singapore đã thực hiện một quá trình lớn trong việc cung cấp y tế và so sánh với các nước đang phát triển khác, nó có một hệ thống chăm sóc y tế toàn diện tiếp cận với mọi người dân. Vào những năm đầu thập kỷ 90, sự xem xét về chính sách y tế đã xác định nhu cầu đối với ngăn chặn về giá trong chi phí chăm sóc y tế và vai trò của Chính phủ trong việc cung cấp sự chăm sóc. Một trong những kiến nghị là Chính phủ nên đầu tư để triền khai một chương trình toàn diện trong việc chăm sóc sức khoẻ cho những người cao tuổi ốm yếu. Điều này bao gồm việc cung cấp nhiều giường bệnh hơn cho việc chăm sóc lão khoa, chăm sóc tại gia đình, chăm sóc hàng ngày, những nơi nghỉ ngơi và các dịch vụ trợ giúp tại gia đình. Khu vực tư nhân, các tổ chức tình nguyện và các bác sỹ đa khoa nên được khuyến khích tham gia vào chương trình này.

Tuy nhiên, một thực tế tại Singapore đó là tình trạng thiếu nhà dưỡng lão kể cả hiện tại cũng như trong tương lai, cầu vượt quá xa so với cung. Tại Singapore có một chính sách hiểu ngầm rằng các nhà dưỡng lão nên được kiểm soát để không khuyến khích các thành viên trong gia đình gửi cha mẹ mình vào đó và họ nên là nguồn cung cấp sự chăm sóc chính chứ không phải là nhà dưỡng lão.

Việc chăm sóc tại gia đình đối với người cao tuổi sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nếu như việc tiếp cận với các nhà dưỡng lão quá dễ dàng. Theo dự đoán, trong giai đoạn 1993-2030, sẽ có một sự thiếu hụt nghiêm trọng về các cơ sở chăm sóc cho người cao tuổi ở mọi cấp độ. Đặc biệt, giường bệnh dành cho các bệnh nhân bị bệnh mãn tính, giường bệnh tại các bệnh viện cộng đồng, chăm sóc tại gia đình và các dịch vụ chăm sóc tại gia đình. Chính phủ cung cấp những khoản tiền trợ cấp cho các tổ chức phúc lợi tình nguyện điều hành các nhà dưỡng lão và nơi cư trú cho người cao tuổi. Bộ Y tế cung cấp 90% chi phí quỹ vốn cho các nhà dưỡng lão và 50% chi phí điều hành. Để khuyến khích hơn việc xây dựng nhiều nhà dưỡng lão do khu vực tư nhân đảm nhiệm, Chính phủ tuyên bố sẽ cung cấp 17 khu đất cho những công ty tư nhân xây dựng nhà dưỡng lão.

Quỹ chăm sóc người cao tuổi được thành lập năm 2000 đã được tăng cường để tài trợ trên một phạm vi rộng lớn cho người cao tuổi và các cơ sở chăm sóc bao gồm nhà dưỡng lão, bệnh viện cộng đồng, nhà cứu trợ và các dịch vụ chăm sóc tại gia đình. Bộ Y tế năm 2000 đã công bố một kế hoạch đối với các dịch vụ chăm sóc y tế thích hợp cho người cao tuổi. Nhu cầu của người cao tuổi thay đổi theo thời gian, ví dụ, một người đang ở trong trung tâm chăm sóc thường xuyên có thể sau đó cần đến các dịch vụ chăm sóc lớn hơn sau khi bị ngã hoặc bị tai nạn. Theo kế hoạch, các dịch vụ dựa vào cộng đồng của Singapore sẽ được chia theo 3 vùng địa lý (Tây, Trung và Đông) và có một hệ thống chặt chẽ ở từng vùng. Mặc dù các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi là có sẵn nhưng trừ dịch vụ chăm sóc tại gia đình, tất cả các dịch vụ khác đều chưa phù hợp với nhu cầu. Các dịch vụ thậm chí không được cung cấp ở các đảo cho nên nhiều gia đình phải đi một khoảng cách xa để tới được nơi có dịch vụ đặc biệt và người cao tuổi cũng phải đi trong một khoảng thời gian lâu hơn, nguyên nhân gây ra tình trạng mệt mỏi.

Tại Singapore, ngày càng có nhiều người cao tuổi sống tại nhà dưỡng lão. Theo thống kê của ngành y tế có khoảng 6.600 người sống trong nhà dưỡng lão năm 2004, so sánh với 6.000 người năm 2003 và 4.500 người vào năm 2000. Nhiều người khác không cần nhiều dịch vụ và họ có thể được chăm sóc tại nhà. Chính phủ Singapore đang lo lắng về xu hướng này và vẫn hy vọng có thể đáp ứng được những nhu cầu về nhà dưỡng lão đang gia tăng như hiện nay. Để chăm sóc cha mẹ cao tuổi, những đứa con đang đi làm thường chọn giải pháp là thuê người giúp việc, khoảng 800USD/tháng. Nếu thu nhập của hộ gia đình ở mức thu nhập trung bình, vào khoảng 1000 USD của một thành viên hoặc ít hơn, Chính phủ sẽ cung cấp một khoản tiền trợ cấp, từ 25 đến 75% của chi phí nếu chăm sóc người cao tuổi tại nhà.

 Ngày càng nhiều người cao tuổi có nhu cầu sử dụng các dịch vụ được chăm sóc là một xu thế tất yếu ở các nước khu vực Đông Nam Á, Singapore là một ví dụ điển hình. Chi phí để người cao tuổi có thể ở tại nhà dưỡng lão vào khoảng từ 500 đến 1800 USD/tháng, phụ thuộc vào mức độ ốm yếu của người cao tuổi. Đối với những gia đình nghèo có người cao tuổi muốn gửi cha mẹ mình đến nhà dưỡng lão chỉ phải trả một khoản phí 125 USD/tháng. Mức giá sàn này là hiển nhiên. Đối với những người chăm sóc một người cao tuổi tại nhà (cha, mẹ hoặc ông, bà) ở cùng căn hộ của mình sẽ nhận được khoản trợ giúp là 5000 USD và họ sẽ nhận được 8000 USD nếu người cao tuổi đó là tàn tật (5)

Tuy nhiên tại Singapore, đối với những người gửi cha mẹ mình vào các nhà dưỡng lão, họ sẽ chỉ nhận được một khoản giúp đỡ về thuế là 3500 USD đến 6500 USD theo mức tương ứng. Do vậy, việc xây dựng ngày càng nhiều nhà dưỡng lão để đáp ứng nhu cầu không phải là câu trả lời. Làm như vậy sẽ là một thất thoát lớn của quốc gia với nhu cầu gia tăng về cơ sở hạ tầng cũng như nhân lực để thực hiện. Một giải pháp được đưa ra đó là trung tâm chăm sóc theo ngày. Năm 1996, tiến sỹ Aline Wong, sau này là lãnh đạo phụ trách về y tế tuyên bố rằng Chính phủ đã phê duyệt 126 triệu đô la cho 15 nhà dưỡng lão và chi 3 triệu đô la cho 9 trung tâm chăm sóc theo ngày. Để hoạt động, nhiều nơi đã đưa ra mức giá hấp dẫn và phương tiện đi lại rẻ đối với người cao tuổi vì không phải tất cả mọi người đều có xe hơi. Ở mức giá cao nhất, việc chi trả cho một ngày chăm sóc cũng như phương tiện đi lại có thể lên đến 70USD/ngày.

Tại Singapore, số lượng người cao tuổi sống tại các nhà dưỡng lão được điều hành bởi các tổ chức phúc lợi tình nguyện sẽ giảm đi do Bộ Y tế đang xem xét lại tiểu chuẩn tiền đóng góp và khung kế hoạch trợ cấp cho các cơ sở này. Việc xem xét này được đưa ra sau 4 năm kể từ khi việc khảo sát tài sản đối với các nhà dưỡng lão vào năm 2000 và để đảm bảo rằng những bệnh nhân ở các nhà dưỡng, những người thực sự cần có sự giúp đỡ về tài chính có thể được giúp đỡ. Các tiêu chuẩn sẽ được thực hiện một cách nghiêm ngặt để chỉ những bệnh nhân là những người thực sự cần có sự chăm sóc cả ngày lẫn đêm mới được được nhận.

Để quảng bá các dịch vụ phục hồi hàng ngày như một sự lựa chọn cho những người không cần có sự chăm sóc cố định, Bộ Y tế Singapore đang đồng thời làm việc với các tổ chức phúc lợi tình nguyện để tăng cường phương tiện giao thông, giờ mở cửa và những cố gắng cộng đồng.

Kinh nghiệm của Malaysia

Tại Malaysia, truyền thống gia đình là nền tảng của xã hội và là nguồn lực đầu tiên của sự ủng hộ, giúp đỡ, chăm sóc cho những người ốm yếu, khuyết tật và người cao tuổi. Vì lý do này, sự nhấn mạnh được tập trung vào việc tăng cường, củng cố đơn vị gia đình như một mô hình chăm sóc hữu hiệu dành cho người cao tuổi. Việc đưa người cao tuổi vào các cơ sở từ thiện chỉ là giải pháp cuối cùng.

Nhằm khuyến khích gia đình chăm sóc người cao tuổi, Chính phủ đã cho phép giảm thuế đối với việc chi trả các chi phí về y tế đồng thời thiết lập nên các trung tâm chăm sóc hàng ngày dựa vào cộng đồng cũng như các nhà dưỡng lão dành cho người cao tuổi. Chính phủ đã dành một phần ngân sách quan trọng để đảm bảo cho tất cả các nhóm tuổi, bao gồm cả người cao tuổi, có cơ hội và phương tiện để tham gia vào quá trình phát triển. Kế hoạch hành động này nhằm cung cấp sự chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi với việc nhấn mạnh vào các dịch vụ chăm sóc và lão khoa dựa vào cộng đồng, các hoạt động xã hội và giải trí, nhà ở an toàn, nghiên cứu và phát triển và các chương trình ủng hộ.

Tại Malayxia, cho đến tận năm 1995 vẫn chưa có bất cứ một chính sách cụ thể nào về người cao tuổi. Các chương trình và chính sách phục vụ cho các nhu cầu của người cao tuổi được hợp nhất vào trong các chính sách phúc lợi của một xã hội tổng thể. Chính sách phúc lợi quốc gia ban hành vào năm 1990 xác định người cao tuổi thuộc vào một trong các nhóm ưu tiên. Mặc dù đây là lần đầu tiên và thừa nhận nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi, gia đình hoặc cộng đồng được khuyến khích tiếp tục cung cấp sự chăm sóc cho người cao tuổi. Nguyên tắc chính là sự chăm sóc ở các tổ chức chỉ là biện pháp cuối cùng.

Năm 1995, Chính phủ đã thông qua chính sách quốc gia về người cao tuổi. Chính sách tập trung vào việc khuyến khích cung cấp các cơ sở cho người cao tuổi để đảm bảo việc chăm sóc và bảo vệ họ. Malayxia không có một chính sách cụ thể nào về chăm sóc trong thời gian dài đối với người cao tuổi nhưng nói thế không có nghĩa là không có những quy định và các công trình để cung cấp những dịch vụ cần thiết trợ giúp việc chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi. Từ khía cạnh điều chỉnh, hoạt động chăm sóc tập trung năm 1993, những quy định chăm sóc tập trung năm 1995 tồn tại điều hành ở mức độ thấp nhất để bảo vệ sự quan tâm đối với người cao tuổi. Các cơ sở chăm sóc tư nhân và hoạt động dịch vụ năm 1998 quy định những hướng dẫn và điều chỉnh cụ thể đối với các nhà dưỡng lão.

Đã có nhiều sự quan tâm đến vấn về y tế và già hoá dân số liên quan đến gánh nặng trong hệ thống chăm sóc y tế ở Malayxia, đặc biệt liên quan đến các gia tăng chi phí. Trong nội dung về tình trạng sức khoẻ, dựa trên sự tự đánh giá, phần lớn người cao tuổi cho rằng họ khoẻ mạnh với một tỷ lệ cao hơn đối với người cao tuổi ở khu vực thành thị. Vấn đề về thị lực có liên quan lớn hơn so với vấn đề thính giác. Cao huyết áp là phổ biến nhất và phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều hơn so với nam giới cao tuổi. Thấp khớp là một vấn đề đối với phụ nữ nhưng nó có vẻ như có tác động hơn đối với nam giới.

Bên cạnh đó tại Malayxia, một tỷ lệ cao người cao tuổi không thể thực hiện được các hoạt động thường ngày. Ngược lại, khả năng để thực hiện những hoạt động thường ngày giảm dần theo tuổi. Trong số những người không thể thực hiện được các hoạt động thường ngày, những khó khăn chính là việc đi lại và mua sắm. “Vào hoặc ra khỏi giường” là một vấn đề không chỉ đối với những người thuộc nhóm tuổi già nhất và phổ biến hơn ở nữ giới so với nam giới. Nhìn chung, nam giới có sức khoẻ tốt hơn so với nữ giới, đặc biệt ở những người từ 70 tuổi trở lên.

Sức khoẻ xã hội bao gồm môi trường, sự tham gia các hoạt động và cách sống. Hầu hết người cao tuổi ở Malayxia, đánh giá môi trường nhà ở của họ là tốt hoặc hoàn hảo ngoại trừ một tỷ lệ nhỏ cho rằng họ không cảm thấy an toàn khi ở trong nhà của mình. Phần lớn người cao tuổi sống chung cùng với con cái hoặc bạn đời của mình và sự giúp đỡ là sẵn có đối với họ. Một tỷ lệ nhỏ cho biết họ không có bất cứ ai để chăm sóc khi họ bị ốm đau.

Theo các số liệu thống kê của ngành y tế, trung bình, người Malayxia đến các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tư nhân khoảng từ 2 đến 3 lần/năm nhưng đối với người cao tuổi, con số này là 6 lần/năm. Các dịch vụ y tế của Chính phủ là sự lựa chọn phổ biến. Một sự phát triển quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi ở Malayxia đã được thiết lập. Kể từ giữa những năm 1990, các bệnh viện lão khoa và các trung tâm phục hồi đã được mở để đáp ứng các dịch vụ của người cao tuổi.

Riêng đối với khu vực tư nhân, chỉ có một bệnh viện tư nhân phục vụ người cao tuổi. Một bệnh viện lão khoa khác đã được tài trợ trong suốt giai đoạn của kế hoạch lần thứ 7 và nhiều bệnh viện chung khác đang trong giai đoạn của kế hoạch lần thứ 8 (2001-2005). Tổng số 33 bệnh viện được phê duyệt trong giai đoạn kế hoạch lần thứ 7, 16 bệnh viện sẽ được cung cấp dịch vụ lão khoa. Bên cạnh các dịch vụ có sẵn ở khu vực nhà nước, nhiều bệnh viện tư nhân khác cũng thiết lập các dịch vụ lão khoa. Các dịch vụ phục hồi như vật lý trị liệu và điều trị bằng lao động cho người cao tuổi mặc dù dịch vụ này không mở rộng ra khu vực nông thôn.

Như vậy, thông qua hệ thống các bệnh viện và phòng khám cung cấp chăm sóc y tế và sức khoẻ cho mọi lứa tuổi trong đó có người cao tuổi, những cố gắng đang được thực hiện để cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi như một phần của khái niệm chăm sóc xã hội, ví dụ, cha mẹ của những công dân được cung cấp miễn phí các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ từ các bệnh viện của Chính phủ.

Bởi vì chi phí chăm sóc sức khoẻ là một mối quan tâm chính đối với các cá nhân, gia đình cũng như Chính phủ, nên được hiểu rằng các nguồn tài chính cho việc chăm sóc sức khoẻ là có sẵn. Một phần lớn tài chính đã được thông qua trong kế hoạch lần thứ 8 của Maylaxia giai đoạn 2001-2005 như một chiến lược đối với phát triển y tế.

Năm 1995, chương trình chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi đã được triển khai tập trung vào việc nâng cao và duy trì sức khoẻ cũng như khả năng của người cao tuổi. Nhiều hợp phần về chăm sóc sức khoẻ đã được xác định và các chiến lược đã đưa ra để đạt được các mục tiêu của chương trình bao gồm chăm sóc sức khoẻ tăng cường và phòng tránh, chăm sóc y tế và phục hồi, nghiên cứu và đào tạo. Kể từ khi bắt đầu chương trình, nhiều hoạt động đã được thực hiện như kế hoạch hành động quốc gia về chương trình sức khoẻ tinh thần cộng đồng cùng một số dự án thí điểm được thiết lập năm 1997, chiến dịch về cách sống khoẻ mạnh tập trung vào việc phòng chống và kiểm soát các bệnh mãn tính, các dịch vụ phục hồi, các trung tâm y tế hoạch định các hoạt động dựa vào cộng đồng, kế hoạch giai đoạn 1997-2000 bao gồm 3 dịch vụ chính gồm dịch vụ bệnh viện, trung tâm y tế hoặc các dịch vụ sức khoẻ cộng đồng.

Trong việc chăm sóc người cao tuổi ở Malayxia, gia đình cũng như cộng đồng luôn đóng vai trò đầu tiên. Tuy nhiên, cũng như các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực, sự xói mòn hệ thống gia đình mở rộng, phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động ngày càng đông và qui mô gia đình nhỏ đã tạo nên trạng thái căng thẳng. Sự phát triển này đã thúc đẩy sự phát triển việc chăm sóc người cao tuổi tại các cơ sở dưỡng lão. Tuy nhiên, các cơ sở dưỡng lão chỉ có thể tiếp cận đối với những người có khả năng chi trả (trong trường hợp các nhà dưỡng lão của tư nhân) và phần lớn ở khu vực thành thị.

Tại Malayxia, chăm sóc tại cơ sở được hình thành gồm: Chính phủ cung cấp nơi cư trú và chăm sóc dài hạn; khu vực tư nhân vì lợi nhuận; các tổ chức phi Chính phủ đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi trong sự khuyến khích của Chính phủ. Nhà dưỡng lão được xây dựng phần lớn ở khu vực nông thôn. Nhà dưỡng lão được điều hành bởi các tổ chức tư nhân và được giám sát bởi Bộ Y tế hoặc phòng phúc lợi xã hội.

Nhà dưỡng lão đầu tiên tại Malayxia được thành lập vào năm 1983. Đến năm 2001, đã có từ 40 đến 50 nhà dưỡng lão ở mức độ vừa phải (trên 40 giường). Các nhà dưỡng lão phục vụ 24/24 các nhu cầu khác nhau bao gồm người cao tuổi và người tàn tật. Những kiểu nhà này chịu sự giám sát của Phòng phúc lợi xã hội. Tại Malayxia, Hội đồng quốc gia về sức khoẻ của người cao tuổi đã được thành lập năm 1997 trực thuộc Bộ Y tế. Các hoạt động chính là để giám sát các chính sách gắn liền với sức khoẻ của người cao tuổi.

Bệnh viện dành cho người cao tuổi ở Malayxia vẫn còn hạn chế. Mặc dù phát triển việc cung cấp chăm sóc sức khoẻ cụ thể như chăm sóc lão khoa cho người cao tuổi, cả ở khu vực Nhà nước cũng như tư nhân và mục tiêu là cung cấp chăm sóc lão khoa tại tất cả các bệnh viện cấp huyện vằo năm 2020. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu này là rất khó, liên quan đến sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ có chuyên môn về lão khoa. Bên cạnh đó, vấn đề tài chính vẫn là thách thức lớn với các nhu cầu và chi phí gia tăng liên quan đến chăm sóc sức khoẻ. Mặc dù kế hoạch Malayxia lần thứ 8 giai đoạn 2001-2005 đã đưa ra một chiến lược khung kế hoạch tài chính về chăm sóc sức khoẻ nhưng còn quá sớm để xem xét đến các kết quả.

Kinh nghiệm của Thái Lan

Tại Thái Lan, Viện Phúc lợi cho người cao tuổi của Chính phủ thành lập từ rất sớm ngay từ năm 1953, tuy nhiên, không có bất cứ một chính sách ở tầm quốc gia chính thức nào ban hành về người cao tuổi cho đến tận năm 1986.

Hội nghị già hoá thế giới lần thứ nhất tại Viên năm 1982 đã đưa ra nhiều kế hoạch hành động và Chính phủ Thái Lan đã hưởng ứng bằng việc thành lập Uỷ ban quốc gia về người cao tuổi. Năm 1986, Uỷ ban quốc gia về người cao tuổi Thái Lan đã xây dựng một kế hoạch hành động quốc gia dài hạn đối với người cao tuổi. Kế hoạch nhằm triển khai các chính sách của Chính phủ trong việc chăm sóc người cao tuổi và được sử dụng như một kế hoạch khung và hướng dẫn các hoạt động của các tổ chức khác.

Sau năm 1986, nhiều chương trình về người cao tuổi đã được triển khai tại Thái Lan. Phòng phúc lợi xã hội là một tổ chức chính chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ xã hội bao gồm cả việc chăm sóc tại cộng đồng cũng như tại các cơ sở. Theo thống kê năm 2007, phòng phúc lợi xã hội đang điều hành 20 nhà cho người cao tuổi và 18 trung tâm cung cấp sự chăm sóc hàng ngày, các dịch vụ cư trú khẩn cấp và các dịch vụ di chuyển cho người cao tuổi sống tại cộng đồng.

Nhu cầu đối với chăm sóc dài hạn đối với người cao tuổi là kết quả của già hoá nhanh và tình trạng giảm sút về sức khoẻ. Mô hình chính trong chăm sóc dài ngày đó là sự chăm sóc không chính thức của gia đình. Phần lớn người cao tuổi Thái Lan cần có sự giúp đỡ từ các thành viên trong gia đình. Việc người cao tuổi sống chung cùng gia đình vẫn là khuôn mẫu trong xã hội Thái Lan nhưng nó đang ngày càng bị giảm sút nghiêm trọng trong hai thập kỷ vừa qua bởi sự thay đổi quá nhanh về kinh tế xã hội mà Thái Lan đang trải qua. Sự thay đổi kinh tế xã hội bao gồm gia đình quy mô nhỏ và sự gia tăng phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động và số phụ nữ cao tuổi goá bụa, ly dị hoặc ly thân cao hơn so với nam giới.

Những người cao tuổi sống độc thân, nhất là những người thuộc nhóm tuổi rất già, là những người có nguy cơ cao nhất bao gồm người không có ai chăm sóc trong lúc đau yếu, vấn đề tài chính và nhu cầu tìm việc,khó khăn trong việc thực hiện những công việc hàng ngày. Nững người cao tuổi này ít có cơ hội hơn khi họ có nhu cầu được chăm sóc.

Phòng phúc lợi xã hội thuộc Bộ Lao động và phúc lợi xã hội chịu trách nhiệm chính đối với chăm sóc sức khoẻ dài hạn cho người cao tuổi. Hầu như tất cả các dịch vụ xã hội công tại Thái Lan được điều hành bởi tổ chức này. Trong các nội dung chăm sóc dài hạn chính thức được cung cấp bởi các tổ chức công, các dịch vụ xã hội tiên tiến hơn so với các dịch vụ y tế.

Cơ sở dịch vụ chăm sóc người cao tuổi đầu tiên được thành lập tại Thái Lan vào năm 1956 và có tên là “Nhà cho người cao tuổi” cung cấp các dịch vụ cho những người cao tuổi có thu nhập thấp và không thể ở tại nhà của mình hoặc không có ai thân thích chăm sóc. Những người cao tuổi sống tại nhà cho người cao tuổi phải tự lập và không có sự chăm sóc bởi các nhân viên. Tuy nhiên, khi họ trở nên yếu hơn, họ sẽ cần phải có những sự chăm sóc cá nhân hoặc y tá. Hiện tại, nhà chăm sóc công không còn có sẵn ở Thái Lan. Các khu vực tư nhân hoạt động vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận đóng vai trò lớn trong việc đóng góp các dịch vụ chăm sóc tại gia đình và chủ yếu là các bệnh viện tư nhân.

Năm 2001, kế hoạch quốc gia chăm sóc dài hạn người cao tuổi lần thứ hai của Thái Lan đã được triển khai bao gồm các chiến lược trong việc cung cấp chăm sóc dài hạn phạm vi lớn như tăng cường và trợ giúp sự chăm sóc không chính thức của gia đình, cung cấp các dịch vụ xã hội và y tế cho cộng đồng ở các cơ sở và các dịch vụ phát triển nơi cư trú và sự thích nghi về môi trường cho phù hợp với các hoạt động của người cao tuổi.

Mặc dù hướng dẫn kế hoạch dài hạn quốc gia đối với người cao tuổi nhấn mạnh tới nhà ở và các dịch vụ dựa vào cộng đồng để giúp cho người cao tuổi có thể duy trì ở nhà của chính bản thân mình trong thời gian lâu nhất có thể nhưng trên thực tế việc cung cấp các dịch vụ phù hợp là có giới hạn. Phần lớn các dịch vụ có sẵn dành cho người cao tuổi và người tàn tật là chỉ cung cấp trong thời gian ngắn và được cung cấp theo yêu cầu hoặc trong tình trạng khẩn cấp.

Đối với loại hình trung tâm chăm sóc hàng ngày, có 18 trung tâm dành cho người cao tuổi, cung cấp chủ yếu việc chăm sóc và phục hồi theo ngày và được điều hành bởi phòng Phúc lợi xã hội. Phần lớn các trung tâm này đều kèm theo nhà cư trú có sẵn để cung cấp các dịch vụ cho một số lượng giới hạn những người cao tuổi sống trong phạm vi từ 5 đến 10 km. Bên cạnh các chương trình phục hồi cơ bản và chăm sóc theo ngày, các trung tâm này còn cung cấp việc khám và điều trị y tế, tư vấn và các hoạt động nghỉ ngơi và phòng khám di động.

Trong những năm gần đây, cùng với sự nâng cao nhận thức về nhu cầu của người cao tuổi trong cộng đồng, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại nhà đã phát triển để đáp ứng cho các nhu cầu đặc biệt như chương trình đến khám bệnh tại gia đình. Tuy nhiên, mô hình này vẫn chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ và các dịch vụ chủ yếu cung cấp cho những người cao tuổi có nhu cầu thăm khám tại gia đình trong một thời gian ngắn. Bộ y tế đã đưa ra chính sách chăm sóc sức khoẻ tại nhà là các bệnh viện nên có một đội gồm bác sỹ, y tá và một nhân viên xã hội và 1 chuyên gia trị liệu để đến khám cho bệnh nhân tại gia đình.

Trong thế kỷ trước có một nhu cầu gia tăng về loại nhà chăm sóc và phục hồi cho người cao tuổi bị ốm yếu hoặc bị bệnh mãn tính. Những người này thuộc diện những người bị trả về từ bệnh viện để tránh tình trạng quá tải và để giảm chi phí khám chữa bệnh và họ cũng là những người có nhu cầu được chăm sóc tại chính gia đình mình, nơi mà các thành viên trong gia đình đóng vai trò là người chăm sóc. Gánh nặng của gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi ốm đau bệnh tật đã dẫn tới một loại hình dịch vụ mới chăm sóc và phục hồi cho người cao tuổi ốm yếu, đặc biệt tại BangKok và những khu đô thị khác. Theo số liệu của Phòng phúc lợi xã hội, có khoảng 10 nhà dưỡng lão kiểu này với khoảng 500 giường cung cấp dịch vụ chăm sóc và phục hồi cho những người cao tuổi ốm yếu mà gia đình có khả năng chi trả.

Một xu hướng mới trong chăm sóc người cao tuổi tại Thái Lan sau cuộc khủng hoảng về tài chính năm 1997 là chăm sóc dựa vào bệnh viện. Áp lực của suy thoái kinh tế, hơn 400 bệnh viện tư nhân đang phải gắng sức để tồn tại. Do vậy, chăm sóc cho người cao tuổi ốm yếu hoặc bị bệnh mãn tính trở thành dịch vụ phụ thêm của các bệnh viện tư nhân đưa ra ở các mức trung bình và cao cấp. Năm 2001, ở Thái Lan có khoảng 50 bệnh viện tư nhân cung cấp dịch vụ này. Mặc dù vậy, các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc lâu dài cho người cao tuổi và những gia đình có đủ khả năng chi trả vẫn còn thiếu so với nhu cầu.

Tóm lại nhìn chung tất cả các nước phát triển và đang phát triển hiện nay đều coi việc chăm sóc cho người cao tuổi là một hoạt động quan trọng của chính phủ và các tổ chức xã hội trong việc thực hiện các chính sách về phúc lợi, an sinh xã hội. Họ cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức triển khai các mô hình thí điểm, các hoạt động chăm sóc người cao tuổi chuẩn bị cho quá trình gia hóa dân số ngày càng tăng nhanh trên phạm vi khu vực và thế giới.

(1)Https://www.un.org/en/conferences/ageing/vienna1982#:~:text=The%20World%20Assembly%20on%20Ageing,to%20contribute%20to%20national%20development; https://www.un.org/esa/socdev/ageing/documents/Resources/VIPEE-English.pdf

(2) https://www.un.org/esa/socdev/documents/ageing/MIPAA/political-declaration-en.pdf

(3) https://edition.cnn.com/2003/ALLPOLITICS/12/08/elec04.medicare/

(4), (5) https://www.unescap.org/sites/default/files/SDD%20Working%20Paper%20Ageing%20Long%20Term%20Care%20Singapore%20v1-3.pdf

[1] Han-Seung-Soo, President of General Assembly, Second World Assembly on Aging, Madird, 2002.

Hàn Vũ Linh, Người cao tuổi và các mô hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam, Nxb Dân trí, 2009

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan