Các chiều cấu trúc của niềm tin (niềm tin trong một thế giới đang biến đổi phần IV)

Niềm tin là dạng thức tâm lý, tình cảm, giá trị của con người, nó có các chiều cấu trúc khá đặc biệt góp phần hình thành nhận thức, tư duy, định hành động thực tiễn và đồng thời kiểm soát, điều chỉnh các hành động đó của con người

Niềm tin là hệ quả của quá trình nhận thức chân lý khách quan.

Niềm tin đến với con người không phải chỉ do những yếu tố ngẫu nhiên, tự phát và chủ quan mà là kết quả của cả một quá trình nhận thức chân lý khách quan. Quá trình nhận thức của con người dù đa dạng và phức tạp đến đâu cũng vận hành theo hướng tiếp cận với sự thật và chân lý. Chân lý khách quan là cơ sở cần thiết để con người xác định niềm tin.

Người ta không bao giờ lại tin tưởng vào một cái gì mà người ta cho rằng không đúng đắn. Khi một người phụ nữ nói với một người đàn ông: “Em yêu anh”, điều này đặt người đàn ông vào vị thế của một người phải kiểm định. Người đàn ông chỉ có thể tin tưởng vào lời nói của người phụ nữ khi anh ta có đủ các dữ liệu cần thiết để tin rằng người phụ nữ đã nói thật. Trong trường hợp ngược lại, anh ta sẽ không tin. Thực tế có thể chứng minh trong rất nhiều trường hợp, người đàn ông đã nhầm lẫn và phải trả giá cho sự nhầm lẫn này khi tin hoặc không tin vào lời nói ngọt ngào kia. Và điều hiển nhiên có thể thấy được là sự nhầm lẫn trong niềm tin này chính là hệ quả, dù có thể sẽ rất đáng tiếc, nhưng lại khó tránh được của sự nhầm lẫn trong nhận thức của anh ta về sự thật khách quan.Tiến sĩ M.J. Adler, một trong những học giả nổi tiếng của Mỹ, khi tổng kết những tư tưởng lớn của nhân loại đã đưa ra một nhận xét thật xác đáng, đó là :    “Định nghĩa chân lý thì dễ, để biết được một phát biểu nào đó có đúng hay không thì khó hơn nhiều và theo đuổi chân lý là khó khăn nhất”. (1)

Câu nói ngắn gọn và thâm thuý của M. J. Adler đã phác hoạ ra một cấu trúc vận hành của niềm tin gồm có ba trục tác động tương hỗ. Thứ nhất là chân lý khách quan, thứ hai là sự nhận thức về chân lý khách quan để có được niềm tin và thứ ba là theo đuổi chân lý hay còn gọi là hành động theo chân lý. Sự hình thành, vận động và biến đổi của niềm tin là biểu hiện thực tế của mối quan hệ tương tác giữa ba trục tác động tương hỗ nói trên. Nó cho thấy khi nhận thức đúng đắn và sâu sắc về chân lý khách quan, con người sẽ có được niềm tin vững chắc, và khi nhận thức còn sai lệch, chưa hoàn toàn đúng đắn, niềm tin của con người sẽ hời hợt, mơ hồ. Khi không nhận thức được chân lý, con người sẽ hoài nghi, thậm chí không tin tưởng vào chân lý.

Minh họa, ảnh internet

Những người theo chủ nghĩa hoài nghi hoặc thuyết bất khả tri thường không bao giờ tin tưởng vào khả năng nhận thức chân lý. Họ cho rằng con người chỉ nhìn thấy sự vật và hiện tượng bên ngoài mà không bao giờ có thể hiểu được bản chất của chân lý. Đối với họ, niềm tin chỉ là ảo giác về một điều mà con người không bao giờ có khả năng nhận thức được và như vậy, nói chung con người đừng nên tin tưởng vào bất cứ điều gì. Quan điểm này, ngay từ thời cổ đại, đã bị chính Platon và Aristotle phê phán mạnh mẽ. Hai ông đều cho rằng con người, với học vấn và kinh nghiệm của mình có khả năng nắm bắt được chính xác một số vấn đề liên quan đến chân lý khách quan. Chẳng hạn, theo Aristotle cái bộ phận là một phần của cái tổng thể, điều này ai cũng biết được và đó cũng là chân lý.

Sự nhận thức sai lạc về chân lý có thể dẫn đến một trong những điều tệ hại nhất trong cuộc sống của con người, đó là sự sai lạc về niềm tin. Trường hợp này xảy ra, con người sẽ không tin vào một chân lý khách quan mà vào một “chân lý ảo”, hành động theo tiếng gọi sai lầm của những điều mà họ ngỡ tưởng là chân lý. ở đây, niềm tin mù quáng sẽ đưa con người vào những sai lầm trong hành vi mà nó sẽ chỉ được sửa chữa, khi nào họ tiếp cận và nhận thức được rõ ràng hơn về chân lý khách quan.

Mất hoàn toàn niềm tin là đỉnh điểm của sự nhận thức sai lệch về chân lý. Về điều này, những nghiên cứu của nhà xã hội học Pháp, E. Durkheim về nạn tự tử trong tác phẩm “Nạn tự tử” (Suicide – xuất bản năm 1897) đã hướng vào việc giải thích những biểu hiện sâu sắc của hiện tượng mất niềm tin vào cuộc sống dẫn đến tự tử ở một số người trong xã hội. Ông phân định tự tử thành các dạng thức khác nhau xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Có thể đó là tự sát vị kỷ, gắn cái chết của mình với sự chán nản và vô vọng với cuộc sống, hoặc đó là tự sát vị tha, tức là hy sinh vì một điều gì khác được cho là cao cả, nhưng theo ông, dù thế nào chăng nữa thì tự sát vẫn là một thứ bệnh của xã hội hiện đại – bệnh mất lòng tin hoặc có niềm tin sai lạc.

Niềm tin là một trạng thái đặc biệt của tình cảm, tâm lý

Khi khẳng định niềm tin là một trạng thái đặc biệt của tình cảm, tâm lý của con người, chúng ta có thể hiểu nó như là một sản phẩm của ý thức. Bởi vậy cũng giống như toàn bộ những lĩnh vực khác nhau trong ý thức và đời sống tinh thần của con người, tức là trong những nhân tố chủ quan, niềm tin là sự phản ánh lại những điều kiện khách quan bên ngoài của cuộc sống con người. Niềm tin chịu sự quyết định của những điều kiện vật chất, môi trường kinh tế xã hội, văn hoá của xã hội và cũng thay đổi cùng với những sự thay đổi của các điều kiện này.

Là một nhân tố chủ quan, niềm tin có thể phản ánh đúng hoặc không đúng sự thực khách quan. Khi phản ánh đúng, nó trở thành niềm tin khách quan. Cuộc sống của con người là cả một quá trình rèn luyện, học hỏi thông qua lao động và sáng tạo để có được niềm tin khách quan. Niềm tin khách quan, tạo cho con người cơ sở khoa học và sức mạnh, chủ động vượt qua mọi khó khăn, cam go của cuộc đời, xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên thực tế đã chứng minh không phải lúc nào con người cũng có thể đạt tới được niềm tin khách quan. Cũng giống như tất cả những lĩnh vực khác nhau trong nhận thức con người, niềm tin bị giới hạn không chỉ bởi những điều kiện vật chất khách quan mà còn bởi chính khả năng và trình độ hiểu biết của con người. Con người sống ở một nước kém phát triển sẽ có nhận thức và niềm tin khác với một người sống tại một xã hội hiện đại và văn minh. Một người mù chữ và kém hiểu biết chắc chắn sẽ có niềm tin và thái độ khác với một người có trình độ học vấn cao. Trong trường hợp này, xét theo chiều nhận thức chân lý, niềm tin của con người sẽ có thể biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Niềm tin có thể đạt tới niềm tin khách quan, khi nó nhận biết được đúng đắn các quy tắc tồn tại và vận hành của đối tượng và khách thể mà nó tin vào. Niềm tin cũng có thể trở thành niềm tin chủ quan khi nó nhân thức không được đầy đủ hoặc đúng đắn về chân lý khách quan. Khi đó, người ta thường gọi những trường hợp này là niềm tin mơ hồ hoặc niềm tin mù quáng.

Cũng với tính chất là một biểu hiện của trạng thái ý thức, tình cảm, niềm tin không phải lúc nào cũng có thể là vững chắc và bất biến. Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, vào nhận thức của chính con người mà niềm tin có thể biến đổi. Ranh giới giữa niềm tin và sự hoài nghi trong quá trình nhận thức của con người luôn là tương đối mỏng manh. Trên thực tế, một khi trạng thái phai nhạt niềm tin xuất hiện, để tạo dựng vững chắc niềm tin, người ta lại phải cần đến sự hỗ trợ của tính kiên định, đến vai trò của lý trí.

Các nhà thần học và triết gia của giáo hội thuở sơ khai và thời trung cổ đều giải thích niềm tin như là sự tin cậy và trung thành của cá nhân. Trong Kinh thánh, đức tin còn được nhấn mạnh như là sự trung thành. Trong kinh Cựu ước, khái niệm đức tin có nghĩa là sự kiên định, sự khẳng định một cách cương quyết, sự trung thành một cách tuyệt đối. Nhà truyền giáo và nghiên cứu thần học nổi tiếng, nhân vật hàng đầu của giáo hội Bắc Phi đầu thế kỷ thứ V là Saint Augustine (354-430) khi viết cuốn “ Thành phố của Chúa” (The city of god) nói về đức tin với tôn giáo, ông cho rằng bản thân niềm tin thôi là không đủ mà cần phải có sự bổ trợ của lý trí. Chính lý trí sẽ giúp con người vượt qua được sự hoài nghi để đến với đức tin.

Việc viện dẫn cả sức mạnh của lý trí để tránh đi sự hoài nghi nhằm củng cố đức tin đã được coi là một trong những phương pháp quan trọng để truyền bá đức tin tôn giáo. S. Augustine khẳng định: “tôi tin là để tôi có thể hiểu thấu được”. Tức là khi đã tin tưởng thì cá nhân sẽ có điều kiện để nhận thức được một cách đúng đắn. Triết gia kinh viện nổi tiếng người ý, nhà thần học chính yếu của giáo hội La Mã là Saint Thomas Aquinas (1225-1274) cũng cho rằng trong đức tin cần có cả trí tuệ lẫn ý chí, với mệnh đề “niềm tin là sự suy tư cộng với sự đồng ý” .(2)

Như vậy theo các quan điểm thần học và những nghiên cứu mang xu hướng tâm lý học, niềm tin cần phải được đặt không chỉ trong mối quan hệ giữa nhận thức của con người với chân lý khách quan mà còn trong mối quan hệ với ý chí chủ quan của con người. Không có ý chí chủ quan, không có sự kiên định thì cũng không thể có được niềm tin thực sự. Nói một cách khác là niềm tin cũng phải xuất phát từ chính niềm tin và như vậy, niềm tin lại sinh ra niềm tin.

Niềm tin là hệ quả của những quá trình tương tác xã hội

Cuộc sống của con người là một quá trình tương tác giữa họ với nhau trong suốt chiều dài của lịch sử. Con người có mối quan hệ với nhau không chỉ ở các quá trình lao động, sản xuất ra của cải vật chất mà còn cả trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hoá tinh thần. Trong bối cảnh của sự tương tác xã hội này, niềm tin cũng là một sản phẩm mang tính xã hội. Nó được sinh ra và truyền bá không phải chỉ từ nhận thức và hành vi cá nhân mà còn là của chính sự tương tác xã hội.

Nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ, người đặt nền móng cho lý thuyết Tương tác biểu trưng trong xã hội học là G. Mead (1863 – 1931) đã cho rằng con người chỉ có thể khẳng định được mình trong mối quan hệ với người khác. Để trở thành chính mình, các cá thể phải “đi ra ngoài bản thân mình”, tự đánh giá bản thân bằng cách đặt mình vào vị trí của những người khác và xem xét nhận thức và hành vi của mình từ quan điểm đó. Mead nhấn mạnh rằng chỉ có việc đặt mình vào vị thế của những người khác, chúng ta mới có thể quay trở lại để hiểu được chính mình. Ông cho rằng một con người chỉ tồn tại với ý nghĩa một cái tôi là nhờ anh ta tiếp nhận được những cái từ người khác. Trong cái tôi (I) sẽ bao hàm  một phần là cái tôi thuần tuý (self) và một phần còn lại là cái tôi do người khác tác động vào (Me). Trong bối cảnh của sự tương tác xã hội này, nhận thức của cá nhân chịu sự tác động bởi chính nhận thức của người khác. Niềm tin với tính cách là sản phẩm của nhận thức cũng như vậy. Nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những mối quan hệ xã hội, bởi niềm tin của những người khác. Trong trường hợp đó niềm tin của một người lại cộng sinh thành niềm tin của nhiều người khác. Chân lý khách quan, một khi được nhận thức đúng đắn và trở thành niềm tin thì có sức lan toả dường như sẽ không có giới hạn trong cộng đồng xã hội.

Những nghiên cứu về dư luận xã hội đã cho thấy sức mạnh của sự tương tác xã hội trong niềm tin là mạnh mẽ như thế nào. Trong nhiều trường hợp, mặc dù chỉ là những tin đồn thất thiệt, nhưng một khi đã được chuyển tải rộng rãi trong dư luận xã hội, nó cũng có thể gây ra những hậu quả thực sự to lớn. Người ta đã nói nhiều tới câu chuyện những tin đồn sai lạc về ông Tăng Sâm giết người. Câu chuyện dù không đúng chút nào, nhưng một khi được lặp lại hiều lần trong dư luận cũng đã khiến cho mẹ ông, mặc dù rất tin tưởng ở đạo đức của con cũng phải giật mình hoảng hốt.

Nghiên cứu sự tương tác xã hội về niềm tin cho phép chúng ta đánh giá đúng mức được vai trò to lớn của các hoạt động truyền thông trong công tác chính trị tư tưởng, xây dựng niệm tin đúng đắn trong xã hội. Về phương diện này, những bài học của chúng ta trong các cuộc tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, củng cố niềm tin và lý tưởng cách cho nhân dân là hết sức quý báu. Nó phản ánh được tính khoa học và tính cánh mạng của chúng ta về xây dựng niềm tin trong quá trình cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước.

Niềm tin là cơ sở của hành vi cá nhân

Nhận thức đúng đắn thì sẽ có hành động đúng đắn. Đây là một logic thông thường của cuộc sống. Tuy nhiên từ nhận thức đến hành động, con người còn trải qua một chặng đường của những đắn đo, cân nhắc xoay quanh mục tiêu đạt tới niềm tin trong hành động. ở đây, niềm tin có vai trò quyết định sự lựa chọn hành vi. Con người sẽ chỉ yên tâm hành động khi họ tin rằng hành động đó là đúng đắn. Cũng có những người trông chờ ở sự may rủi vì họ còn hoài nghi, nhưng không một ai lại mong muốn hành vi của mình đi ra ngoài mục đích ban đầu. Bởi vậy có thể nói niềm tin chính là cơ sở quyết định của hành vi.

 Các nhà xã hội học theo Thuyết Hành vi thường cho rằng từ nhận thức đến hành vi, con người còn phải trải qua các cấp độ trung gian của những trạng thái tâm lý tình cảm khác nhau trước khi đi đến quyết định rằng mình sẽ hành động như thế nào. Trước hết, đó là sự kiểm định nhận thức, sau đó là các trạng thái tin hoặc không tin. Các trạng thái này sẽ quyết định các phương án khác nhau của hành vi.

Nhà xã hội học, G. Mead (1863 – 1931) cho rằng hành động của cá nhân con người là một quá trình phức tạp  của những sự đắn đo cân nhắc. Ông đã phác hoạ ra một cơ cấu hành vi cá nhân gồm có 4 giai đoạn cơ bản. Các giai đoạn này gắn bó và liên kết với nhau theo một trình tự biện chứng.

Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn xuất hiện các nhu cầu của hành động. Các cá nhân bị thôi thúc hành động dựa trên cơ sở sự phản ứng của cá nhân trước những vấn đề và những tình huống nảy sinh trong cuộc sống. Theo Mead, nhu cầu là sự thể hiện tính chất “lệch pha” và không cân bằng của chủ thể đối với môi trường tự nhiên và xã hội. Nhu cầu chính là động cơ, là cội nguồn của hành động. Chẳng hạn, khi một người bị đói, trong anh ta sẽ xuất hiện nhu cầu muốn được ăn..Trong giai đoạn này, con người hoạt động một cách bản năng theo kiểu phản ứng lại môi trường.

Giai đoạn 2 : Giai đoạn mà con người nhận thức về sự kiện và tình huống khách quan. Cá nhân tìm hiểu, phân tích và tìm cách lý giải về tình huống của anh ta, về khả năng thích nghi với môi trường mà trong đó đã làm nảy sinh các nhu cầu. So với giai đoạn một, những nhận thức của cá nhân trong giai đoạn này đã được phân tích và so sánh sâu sắc hơn. Tính tự nhiên, bản năng giảm xuống do tác động của quá trình xã hội hoá cá nhân. Hành động của con người chuyển sang mức độ đáp trả một cách rõ ràng những kích thích từ bên ngoài. Đây là một cáp độ phản ứng cao hơn so với hành động của giới động vật.

Giai đoạn 3 : Nhận thức của con người được tích luỹ thành những kinh nghiệm, con người bắt đầu sự cân nhắc và lựa chọn các phương án thao tác cho hành động của mình. Trong giai đoạn này, con người kiểm định và xây dựng niềm tin cho hành động của mình.

Giai đoạn 4 : Giai đoạn 4 được coi là giai đoạn hành động, khi niềm tin đã được xây dựng, các phương án hành động đã được xác định. Con người hành động một cách có ý thức với niềm tin rằng hành động của họ sẽ đến được với mục tiêu được xác định từ ban đầu.

Mô hình hành động của Mead đã cho thấy vị trí quan trọng của niềm tin trong cơ cấu hành động của con nguời. Trong cơ cấu này, niềm tin nằm ở giữa, nó chịu sự tác động của nhận thức chân lý nhưng lại là cơ sở để quyết định sự lựa chọn hành vi của con người. Về phương diện này, niềm tin là nhân tố quan trọng dẫn tới thành công.

Niềm tin với tư cách là một giá trị

Cho đến nay, những nhà tư tưởng lớn, những bộ óc uyên bác của nhân loại đều hướng tới việc tìm kiếm một cái đích xứng đáng để dành cho mỗi cuộc đời vươn tới. Với người này nó có thể là cái đẹp, với người khác nó có thể là kiến thức và học vấn, với những người khác nữa thì đó lại là quyền lực và sự sang giàu v.v… Những điều mong muốn vươn tới đó, có ý nghĩa như một giá trị với cuộc sống. Khi mọi cái đều không còn giá trị nào đối với cuộc sống, tức là khi con người không còn mong muốn một điều gì nữa, lúc đó họ sẽ đến rất gần với cái chết. Thực tế cho thấy có nhiều người luôn phải sống trong những nỗi hoang mang, lo sợ, trạng thái bi quan, tuyệt vọng khi họ đánh mất đi niềm tin và những giá trị để phấn đấu vươn đến trong cuộc sống.

Về khái niệm giá trị, đã từ rất lâu trong lịch sử , con người đã đồng nghĩa giá trị với ba yếu tố chân (cái đúng), thiện (cái tốt) và mỹ (cái đẹp), quan niệm đó dù đơn giản nhưng đến nay vẫn đúng.

Giá trị trở thành khái niệm xã hội học, từ những năm đầu thế kỷ 20, khi hai nhà xã hội học F.W. Znaniecki (1882 – 1958) và W.I. Thomas (1863 – 1947) dùng để phân tích về nhân tố tích cực đóng vai quyết định hành vi của chủ thể trong tác phẩm nổi tiếng “Những người nông dân Ba Lan ở châu Âu và Mỹ” (1918) . Theo quan điểm của các nhà xã hội học, giá trị là một khái niệm tương đối rộng, được quy chiếu từ những mối quan tâm, sự thích thú, những sở thích, bổn phận và trách nhiệm, những mong muốn, đòi hỏi, những mối thiện cảm và ác cảm và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn hành vi của con người (Ngoại trừ những hành vi có tính phản xạ ).  (3)

Các nhà tâm lý và xã hội học Xô viết khi nghiên cứu về giá trị trước đây đã cho rằng: hệ thống giá trị vừa phản ánh những nhu cầu cần thiết của con người trong cuộc sống hàng ngày lại vừa phản ánh hệ tư tưởng, văn hoá của xã hội, cơ sở bên trong của những quan hệ của con người đối với những giá trị khác nhau có tính chất vật chất, chính trị, tinh thần và đạo đức.

Nhà nghiên cứu người Nga V.P.Tugarinov định nghĩa về giá trị như sau : “là những khách thể, hiện tượng, thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người ( lợi ích, hứng thú…) của một xã hội hay một giai cấp nào đó, cũng như một cá nhân riêng lẻ, với tư cách là phương tiện thỏa mãn những nhu cầu và những lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư tưởng và những ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng”. (4)

J.H.Fichter , một nhà xã hội học hiện đại Mỹ năm 1973, có một định nghĩa đơn giản song khá lý thú về giá trị là “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với các cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị”. (5)

Còn với một nhà xã hội học khác, J. Macionis khi bàn giá trị trong cuốn sách giáo khoa của ông về xã hội học, ông viết : “Giá trị là những quy chuẩn mà qua đó một thành viên của một nền văn hoá xác định điều gì là đáng mong muốn, điều gì không đáng mong muốn, điều gì là tốt hay dở, điều gì là đẹp hay xấu”(6). Có thể thấy định nghĩa của Macionis là khá đơn giản nhưng cũng khá bao quát và đầy đủ khi thừa nhận giá trị gắn liền với những điều mong muốn của mỗi cá nhân, nhóm và cộng đồng hướng tới các hành vi mà họ chọn lựa, nhưng quan trọng hơn sự đa dạng về giá trị của con người vẫn dựa trên tiêu chí chung dưới những tác động chi phối trực tiếp của nền văn hóa xã hội .

Ở Việt Nam, Giáo sư Đặng Cảnh Khanh, khi đề cập đến khái niệm giá trị, ông đã có những phân tích thú vị, vừa mang tính ẩn dụ, vừa khoa học và hợp lý, đặc biệt khi mô tả mối quan hệ giữa ý nghĩa của giá trị đối với các cá nhân, ông viết : “ Củ khoai có thể chẳng có ý nghĩa gì đói với một triệu phú nhưng nó lại là một giá trị đối với kẻ ăn mày. Tiếng đàn Tỳ bà của một cô gái giang hồ bên bến Tầm Dương chẳng có một chút giá trị gì, cũng chỉ là một thứ “gẩy tai trâu” đối với tất cả mọi người, nhưng với chàng Tư mã Giang Châu Bạch Cư Dị thì nó lại là một thứ âm thanh vô giá, nó sói vào tim chàng, khiến chàng lã chã nước mắt…”. (7)

Phó giáo sư Nguyễn Quang Uẩn và các cộng sự nghiên cứu nhiều năm về giá trị, khi so sánh, tổng kết các quan điểm khác nhau, ông có định nghĩa khá hay về giá trị, đó là “Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay là tư tưởng, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu, hoặc cấp cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ…Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể”.(8)

Như vậy giá trị là một khái niệm được các nhà nghiên cứu đề cập khá rộng rãi, có rất nhiều định nghĩa, ý kiến khác nhau, tuy nhiên các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận giá trị phản ánh chân thực đời sống nhận thức và tinh thần của con người và xã hội một cách tích cực, là những định hướng cho các hoạt động, có vai trò kiểm soát và điều chỉnh xã hội.

Tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, giá trị của cá nhân và xã hội luôn vận động và biến đổi trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ đối với những giá trị là sự thể hiện quá trình đúc kết trí tuệ, tri thức tinh hoa của nhân loại, của những triết lý nhân đạo, nhân văn, mang bản tính con người và xã hội loài người. Đó là những giá trị mang tính vĩnh hằng.

Chúng ta đều biết rằng hơn 2000 năm trước đây trong triết lý về quản lý xã hội, Khổng Tử đã tổng kết trong mệnh đề “không lo gì bằng lo chia không đều”. Mọi rắc rối của xã hội đều bắt đầu từ vấn đề “chia không đều”. Định hướng quản lý, điều hành xã hội cũng như mọi nhu cầu về giá trị của các thành viên trong xã hội đều hướng tới mục đích cơ bản nhất là sự đảm bảo công bằng xã hội. Lý tưởng của chủ nghĩa xã hội cũng luôn luôn đúng khi hướng tới những giá trị giải phóng con người, đấu tranh chống áp bức, bóc lột, nâng cao vị thế và quyền làm chủ của người lao động, xây dựng xã hội no ấm, bình đẳng và tiến bộ.

Niềm tin, với tư cách là một giá trị, nó cũng có thể được coi là một trong những  giá trị mang tính vĩnh hằng của con người. Bởi lẽ ở thời đại nào cũng vậy, niềm tin giúp con người có được mục đích của cuộc sống. Chúng ta hãy thử tưởng tượng xem nếu không còn niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống, thì con người  sẽ mất phương hướng như thế nào. Con người cần có niềm tin để rèn luyện, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách trong thực tại,  hướng tới tương lai, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Khi đó, niềm tin sẽ trở thành lý tưởng, giúp con người sức mạnh. Sống có niềm tin và lý tưởng, con người sẽ mạnh mẽ hơn.

Trong các quan hệ xã hội, niềm tin là một giá trị để gắn kết con người với con người. Trong gia đình, niềm tin một là giá trị nền tảng cho lòng chung thuỷ, là cơ sở tình cảm để duy trì các mối quan hệ ruột thịt. Trong khoa học, niềm tin là cơ sở để hướng tới nhận thức chân lý khách quan.

Ở xã hội Việt Nam truyền thống, niềm tin là một trong những giá trị cơ bản, rất được coi trọng. Tư tưởng về niềm tin được vận dụng trong các khái niệm đạo đức cơ bản như “tín”, “tín nghĩa”, “thành tín”. Chữ tín trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổng thể 5 đức tính cao nhất của giá trị đạo đức nho giáo : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín., đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội của xã hội Việt Nam và nhiều nước phương Đông.

Quan niệm về “tín” của nhà nho có một nội hàm vô cùng phong phú, trong đó có 3 tầng ý nghĩa chủ yếu : thứ nhất, với tư cách một phạm trù triết học, “tín” mang nghĩa chân thành, chân thực, đây là bản tính tự nhiên, là đạo của tự nhiên.  Thứ hai, với tư cách một phạm trù đạo đức, thành tín là tố chất nền tảng của con người, ai mà không có chữ tín thì không đủ tư cách để an thân lập mệnh, không có khả năng có cơ sở để xây dựng và phát triển nhân cách. Thứ ba, chữ tín với tư cách quy phạm hành vi và sự thể hiện nội tại ra bên ngoài, tín là sự thực hành đạo đức đó được xã hội hoá. Cả ba tầng ý nghĩa này đều có một điểm chung là nhấn mạnh đến sự thống nhất giữa nội tại con người và sự biểu lộ ra bên ngoài, sự thống nhất giữa lời núi và việc làm, giữa nhận thức và hành động.

Nhấn mạnh tới vai trò của niềm tin, Khổng tử đã nói: “Từ xưa đến giờ không có ai là không chết cả, nhưng dân mà không tin tưởng thì không thể làm được điều gì” ( Tự cổ giai hữu tử  dân vô tín bất lập – Luận ngữ ).  Đối với ông, dân “vô tín” là điều đáng ngại nhất, bởi lẽ nếu dân không tin tưởng thì đừng nói gì đến việc có thể sai khiến họ. Chính vì vậy mà một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của việc cai trị đất nước là không thể dũng vũ lực, không thể ngồi trên mình ngựa để sai khiến thiên hạ mà cần phải “lấy dân làm gốc”, gây dựng niềm tin tưởng và sự trung thành của họ đối với nhà nước.

Những quan điểm của nho giáo về niềm tin nói trên, cho đến giờ không phải là không còn những giá trị tích cực cần được gìn giữ trong việc tổ chức và quản lý xã hội.

TRÍCH DẪN

(1), (2) . Mortimer. J. Adler (2004), “Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại”. NXb Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr 14, 173.

(3) Thomas. W.I, Znaniecky. F (1918), “The Polish peasant in Europe and American”, Boston, vol1

(4) Tugarinov V.P (1968), “Lý luận giá trị trong chủ nghĩa Mác”, Leningrat ( Theo bản dịch của Nguyễn Quang Uẩn)

(5) J.H.Fichter (1973) “Xã hội học”, NXB Sài gòn, trg 173

(6) Macionis. J (1997) “ Sociology”, Prentice Hall, Upper Saddle River, New Jersey,  , P67.

(7) Đặng Cảnh Khanh (2006), “Xã hội học thanh niên” , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 371

(8) Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc và Mai Văn Trang (1995), “Giá trị – định hướng giá trị nhân cách và giáo dcuj giá trị”, NXB Hà Nội, trang 55 – 56

Hàn Vũ Linh, in trong cuốn Niềm tin trong một thế giới đang biến đổi – một phân tích xã hội học về giá trị nhận thức của học sinh, sinh viên hiện nay, Nxb Khoa học và xã hội 2008

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan