TRUYỀN THỐNG CHỮ NGHĨA, HIẾU HỌC CỦA NGƯỜI VIỆT

      Việt Nam có thể được coi là một trong những đất nước ham học và chăm học nhất thế giới. Đó cũng là nhận định của nhiều học giả trên thế giới và hoàn toàn có cơ sở. Trải suổ chiều dài lịch sử, ở Việt Nam, việc học hành thời nào cũng rất được coi trọng, không chỉ đối với cá nhân mà còn với cả cộng đồng, xã hội. Học hành là một con đường tiến thân của cá nhân trong cộng đồn nhưng đồng thời là phương thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá Việt.

      Lịch sử việc học hành theo phương thức Nho học ở nước ta bắt đầu dưới thời Bắc thuộc, nhưng các vị quan cai trị như Tích Quang (?-?), Nhâm Diên (?-?), Sĩ Nhiếp (137-226) mở trường dạy học chữ Hán và một số lễ nghĩa cho người Việt chỉ với mục đích đào tạo ra những người giúp việc và trung thành với họ. Sang thời kỳ độc lập tự chủ, để củng cố nền độc lập và xây dựng đất nước, các triều đại Lý Trần đã hết sức chú trọng đến việc phát triển công cuộc giáo dục, xây dựng một cơ chế học tập đào tạo một cách chính quy và có hệ thống. Khoa cử trở thành con đường để kén chọn những người có tài, đức ra làm quan giúp dân, giúp nước.

      Thời kỳ Lý – Trần, việc học Nho giáo đã bắt đầu phát triển ở nước ta, song nó vẫn bị Phật giáo và Lão giáo kiềm chế. Các kỳ thi Nho học luôn bị xen kẽ với các kỳ thi Tam Giáo. Đến thời kỳ hậu Lê, đặc biệt dưới triều đại Lê Thánh Tông (1460 – 1497), Nho học mới thực sự chiếm vị trí độc tôn trong nền học vấn ở nước ta. Theo sách sử ghi chép, thông lệ triều đình đã mở các kỳ thi đều đặn 3 năm một lần. Cứ năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu thì tổ chức thi Hương còn năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất thì tổ chức thi Hội. Từ đó việc học hành, nghiên cứu Nho giáo đã phổ biến khắp làng xã, gắn chặt với việc định danh vai trò của người trí thức trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

      Không có một triều đại độc lập nào ở Việt Nam mà không đặt vấn đề học vấn, giáo dục lên hàng đầu. Nhà nước luôn đề ra những chính sách ưu đãi và khuyến khích những người học hành, thường thì họ được miễn, giảm các loại phu dịch vất vả, nặng nề như những người lao động. Đối với những người đỗ đạt, triều đình luôn tổ chức những nghi lễ long trọng trước khi bổ dụng làm quan, để biểu dương thành tích học sau bao ngày đèn sách vất vả.

      Nghi lễ xướng danh tiến sĩ, nghi lễ ban mũ áo cân đai, nghi lễ ban yến, nghi lễ đón đưa vinh quy bái tổ là những hình thức long trọng và động viên tích cực đối với những người có công đèn sách. Tên của những người thi đỗ từ Tiến sĩ trở lên được khắc vào bia đá ở Văn Miếu để lưu truyền hậu thế. Những người đỗ đạt không chỉ được đánh giá ở phương diện thành công cá nhân mà còn trở thành niềm tự hào của dòng họ, của làng quê và là thành công chung của những người xung quanh.

Vinh quy bái tổ, ảnh internet

      Dưới thời Lê Thánh Tông, khoa bảng đã chiếm được một vị trí, ưu thế riêng biệt so với quyền hành trong hệ thống chuẩn mực quản lý nhà nước. Đã thi đỗ thì chắc chắn được bổ làm quan, còn quan lại muốn có được bằng cấp thì phải học hành, thi cử như dân thường. Việc thi cử lại luôn có nhưng luật lệ hết sức nghiêm ngặt, nhằm tìm ra những người thực tài, đảm bảo tính công bằng trong học tập. Chính sách đào tạo của triều đình cũng thường mở rộng không phân biệt bất cứ sự sang, hèn hay tầng lớp, giai cấp, giai tầng xã hội nào.

      Nhà nghiên cứu Nguyễn Thừa Hỷ trong khi phân tích về các tầng lớp ở Thăng Long đã viết về các nho sĩ nghèo một cách sinh động như sau: “đông đảo các nho sĩ từ làng quê, thuộc các trấn tỉnh xã xôi, được cha mẹ hoặc vợ cấp lương, tiền lên Thăng Long – Hà Nội ăn học, ở trọ trong Quán anh đồ  cạnh Giám, dè sẻn từng đồng lên mua sách vở, giấy bút ở phố Hàng Gai, đó chỉ có thể là những người thuộc đẳng cấp bình dân thực thụ. Nhưng khi họ đã đỗ đạt, trở thành các ông Nghè, ông thám, tên được rạng rỡ ghi trên bảng vàng của cửa Đông Hoa và khắc vào bia đá tại Quốc Tử Giám, tiến qua cửa Đoan Môn, quỳ tước thềm điện Kính Thiên, chờ nhà vua ban mũ áo, cân, đai và cho ăn yến, được các nhà buôn giầu có các phố hàng Bạc, Hàng Đào tranh nhau hứa gả cho con gái rồi võng lọng nghênh ngang vinh quy trở về quê, thì người nho sinh đó thực tế đã có một bước nhảy vọt về thân phận, chuyển qua hàng ngũ thống trị của đẳng cấp quan liêu là một công cụ đắc lực của tầng lớp phong kiến ” (1).

      Bên cạnh những chính sách chú trọng giáo dục của nhà nước, các làng xã cũng tổ chức mở rộng việc học hành: Hầu hết các làng đều khuyến khích mở trường học và ghi rõ mức độ đối với những người dạy học (trợ cấp tiền, thóc gạo, giấy bút và cao hơn nữa là ruộng đất). Những người đỗ đạt được đón rước và xếp ngôi thứ cao trong làng và cũng được hưởng tiền thóc gạo do làng trao cho. Có làng quy định tất cả em trai từ 7 tuổi trở lên phải đi học. hương ước hai làng La Nội và Ỷ La quy định “Kẻ sĩ chăm học thì được miễn hụê dịch, binh phần, như đến 26 tuổi mà không có giấy gọi đi thi, thì phải gánh vác các công việc như người thường” (2).

      Trong lịch sử các triều đại phong kiếm, với những chính sách phát triển giáo dục và đào tạo từ trung ương đến địa phương, Việt Nam đã trở thành một nước có môi trường tốt để phát triển sự học tập. Bản thân mỗi người dân thời nào cũng vậy đều nhận thức được tầm quan trọng của học hành. Điều đó đã tạo ra một tinh thần chuộng học, tôn trọng học hành ở người Việt. Kẻ sĩ được đưa lên hàng đầu, được định vị, đề cao một cách tuyệt đối so với các tầng lớp khác trong bảng thang bậc nghề nghiệp “Sĩ, Nông, Công, Thương ”. Trong suy nghĩ văn hóa người Việt xưa, tri thức cũng được đặt cao hơn hẳn so với các lợi ích vật chất, tiền bạc:

“ Chẳng tham ruộng cả ao liền

Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ ”

          Cũng chính từ suy nghĩ đó, các gia đình dù nghèo khó đến đâu cũng cố gắng phải quan tâm tạo điều kiện cho con cái đi học. Ngày mà đứa trẻ đến trường cũng là sự kiện lớn trong gia đình, dòng họ. Người ta tổ chức hàng loạt các nghi thức cẩn thận và cầu kỳ :

          “Buổi học đầu tiên đánh dấu quãng đời mới của đứa trẻ rất được chú trọng. Cho con đi học người ta kén ngày, sửa lễ và tắm rửa, cạo đầu sạch sẽ cho đứa trẻ, làm lễ cáo gia tiên cho đứa bé đi học. Sau khi cha đứa nhỏ khấn lễ tại bàn thờ, chính đứa bé cũng phải lễ bốn lễ, ba vái. Ý nghĩa của lễ này là có ý để chính đứa bé xin tổ tiên phù hộ cho được thông minh, sáng láng học hành tấn tới, giỏi giang…

      Sau khi lễ nhà người ta ăn mặc chỉnh tề dẫn đứa bé cũng mặc quần áo mới tới nhà ông đồ xin nhập môn, có người nhà đội mâm đồ lễ gồm trà rượu trầu cau và cũng có khi con gà, đĩa xôi tuỳ theo gia cảnh học sinh…

      …Ông đồ  làm lễ thánh, đây tức là Đức Khổng tử, tại bàn thờ riêng ở nhà rồi ông cáo với gia tiên việc nhận thêm môn sinh mới ” (3).

      Chính từ tinh thần chuộng học, tôn trọng trí thức đã tạo ra mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa con người với con người, xoay quanh hình ảnh người thày giáo. Đó là truyền thống “tôn sư, trọng đạo”  từ ngày xưa mà người Việt vẫn thường nhắc nhở nhau bằng một câu khéo léo là “Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Đây là những tình cảm thể hiện sự chân thành cũng như lòng kính trọng, biết ơn của cha mẹ học sinh đối với thầy giáo. Bởi vì người thầy giáo ngày xưa tuy nghèo, dạy đông học trò nhưng hầu như không mấy ai lấy tiền công của cha mẹ học sinh cả.

Lớp học truyền thống

      Trong mối quan hệ thầy trò người thầy cũng không chỉ đóng vai truyền thụ tri thức mà còn giảng giải cho học trò về lễ nghĩa cũng như về đạo lý làm người.

      “Muốn cho học trò nên người, các ông đồ coi những môn sinh như chính con ruột mình, và để trừng trị những trò lười biếng, các ông đồ thường luôn luôn có bên cạnh mình trong giờ học chiếc roi mây. Bố mẹ học sinh ngày xưa thấy ông đồ đánh con mình lại mừng, tin rằng thầy học muốn cho con mình hay, không bao giờ có ai oán giận ông đồ vì đã trừng phạt con mình…

      …Ông đồ coi học trò như con, học trò coi ông đồ như cha và người xưa còn đặt vai ông đồ trên vai người cha theo thứ tự : Quân, Sư, Phụ ” (4)

      Học trò đối với thầy khi còn theo học cũng như khi thôi học, luôn luôn có sự kính trọng và biết ơn, dù sau này có làm nên danh vọng bao nhiêu người học trò cũng không quên lễ nghĩa đối với thầy. Chính những tình cảm đó đã trở thành một trợ lực tinh thần lớn trong việc học tập và giáo dục. Người thầy thương yêu học trò và cố gắng truyền thụ tất cả những kiến thức mình học được cho học trò. Học trò cũng luôn cố gắng hết sức mình quyết tâm học giỏi thành tài để khỏi phụ sự tận tình dạy dỗ của thầy.

Thầy đồ, ảnh internet

      Trước một môi trường khách quan hết sức thuận lợi cho việc học tập, người Việt đã luôn tận dụng mọi cơ hội để rèn luyện một ý chí, một nỗ lực chủ quan, phấn đấu học giỏi, học thành tài.

      Trước hết, người Việt đã xác định mục đích học tập một cách hết sức rõ ràng: “Theo nhận định của người xưa thì người đi học có 3 mục đích : Mục đích thứ nhất để hiểu cương thường đạo lý, mục đích thứ hai là cố sao thi đậu làm quan để mang tài ra kinh bang tế thế ngõ hầu làm tròn cái xứ mạng kẻ sĩ đối với vua với nước và cũng là để hưởng công danh lâu dài. Mục đích thứ ba là đối với dân quê dù chân lấm tay bùn cũng cố gắng cho con đi học năm ba năm, họ không hề mong cho con thi đậu làm quan mà chỉ để biết đọc bản gia phả của dòng họ, biết viết một cái bằng khoán mua bán nhà cửa hoặc trâu bò để khỏi bị người khác lừa dối” (5).

      Trong ba mục đích kể trên thì mục đích thứ hai là cơ bản nhất. Nó thể hiện tinh thần học không phải chỉ để biết các tri thức văn hoá mà con phải vận dụng để hành đạo giúp vua, giúp nước. Học cũng là bước đường để mỗi cá nhân tạo lập công danh sự nghiệp cho riêng mình. Từ việc học giỏi mà được thi đỗ làm quan, được hưởng những đặc ân của nhà vua, bổng lộc của triều đình, được người đời khâm phục và kính trọng. Tên tuổi được lưu truyền trong sử sách phải chăng đó chính là động lực bên trong luôn thôi thúc người ta siêng năng, cần mẫn cố gắng đạt kết quả trong học tập.

      Bên cạnh việc phải phấn đấu trong học tập để đạt mục đích, Nho giáo còn chủ trương bắt người đi học phải kết hợp việc trau dồi kiến thức với việc rèn luyện các phẩm chất đạo đức khác. Muốn được nhà vua trọng dụng, xã hội tôn trọng, người ta từ khi đi học cũng như khi đỗ đạt làm quan phải luôn tu dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”.

      Trong quá trình học người ta phải “Tiên học lễ, hậu học văn” học và rèn luyện phẩm chất trước rồi sau mới đến học văn hoá. Vì vậy sự học cũng đòi hỏi người trí thức thực sự có một bản lĩnh một khí tiết vững vàng thì mới đạt thành mục đích như Mạnh Tử dạy “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Phú quý không làm sa đoạ, nghèo khổ không làm lung lay ý chí, uy vũ không thể khuất phục được).

Trường thi xưa

      Chính vì việc xác định mục đích cũng như khó khăn trong việc học tập, người đi học đã phải kiên trì phấn đấu, quyết tâm khắc phục hoàn cảnh để học, đạt được kết quả cuối cùng.

      Ý chí phấn đấu học tập của người Việt thật là kỳ lạ. Khi đã quyết tâm học họ luôn bất chấp hoàn cảnh nghèo khó của mình. Có người vừa cố gắng làm lụng hàng ngày để nuôi thân vừa giành thời gian dỗi dãi ban đêm, chong đèn để trau dồi kinh sử. Có những người chỉ biết chăn vịt, chăn trâu làm ruộng nhưng đến khi nhận thức được tầm quan trọng của việc học đã biết sử dụng thời gian hoàn cảnh một cách khéo léo và hợp lý: học ngay trong những lúc lao động vất vả ấy. Những khi thiếu thốn về sách vở, giấy mực người ta luôn biết vận dụng đầu óc thông minh tìm tòi, sáng tạo, khắc phục để học tập.

 Lều chõng, ảnh internet

Bảng vàng, ảnh internet
Tân khoa, ảnh internet

      Người Việt Nam trước đây vẫn truyền – tụng những tấm gương học hành, đỗ đạt, chẳng hạn Dương Tử Do (1441-1459) đến 43 tuổi mà vẫn chưa biết chữ, chỉ vì bị khinh bỉ nhục nhã chốn đình làng mà bỏ làng ra đi, quyết chí học hành, sáu năm sau (1458) đỗ tiến sĩ vinh quy về làng, ai cũng ngạc nhiên. Nguyễn Nghiên Tư (1383-1471) thuở trước cũng chỉ là người nuôi lợn ở nhà nhưng nhờ quyết tâm dùi mài đèn sách mà đã đỗ trạng nguyên năm 1448. Ngay cả lính hầu của vua Lê Thánh Tông là Nguyễn Kim Ân một số tài liệu ghi Nguyễn Toàn An (1450 -?) cũng vậy. Do hiếu học vua bèn cho về đi học mấy năm sau cũng đỗ Bảng Nhãn. Nguyễn Xao (?-?) năm 18 tuổi làm nghề đánh cá trên sông nhận thấy đám rước một ông tiến sĩ vinh quy baí tổ hỏi ra mới biết là nhờ học hành chăm chỉ mà thành đạt, bèn bỏ nghề đi học, mấy năm sau đỗ Hội Nguyên.

      Nguyễn Văn Giai (1555-1628) thời trẻ luôn làm nghề gánh hàng thuê lấy tiền mua dầu đèn để học, sau đỗ tiến sĩ làm đến Tể tưởng đời Lê Trung Hưng. Vũ Khâm Lân (1702-?), ham học, một cô đầu thấy vậy giúp đỡ tiền mua đèn sách sau cũng đỗ tiến sĩ… và có thể kể ra biết bao nhiêu tấm gương ham học, coi học hành là cuộc đời mình như vậy nữa.

      Bên cạnh việc khắc phục khó khăn về hoàn cảnh, ý chí ham học của người Việt còn thể hiện ở việc học không kể đến tuổi tác. Ở Việt Nam thời xưa từ trẻ con cho đến người già đều quyết tâm học. Có những người như Nguyễn Hiền (1234-1256) 13 tuổi đã thi đỗ trạng nguyên. Cũng có những người như Quách Đông Dần (1566-1650) học mãi đến năm 68 tuổi mới thi đỗ tiến sĩ.

      Đó là những trường hợp đỗ đạt công khai, bảng vàng, bia đá. Còn có biết bao nhiêu người suốt cả đời học, phấn đấu nhưng không có được những may mắn đó vì “học tài thi phận”, đó là lẽ thường tình của chế độ cũ. Những người này phải tìm sự an ủi cho số phận mình trong việc truyền thụ lại tri thức cho các thế hệ sau. Đó cũng là tư tưởng “tiến vi quan, thoái vi sư”, không để cho những cái mình học được bị mất đi. Những người học trò của họ sau đó lại quyết tâm học phấn đấu thì đỗ để thoả cái chí của thầy. Chính nhờ cái chuỗi thời gian liên tục đó, học hành đã trở thành truyền thống được giữ gìn, được phát triển qua các thế hệ người Việt.

      Đã có nhiều học giả cho rằng cái học của người Việt Nam là không biết sáng tạo, chỉ biết bắt chước, và chính nho giáo là trở lực hạn chế óc sáng tạo của người Việt. Xét ở một góc độ nào đó thì điều đó cũng có phần đúng, tuy nhiên nếu đặt ở những hoàn cảnh lịch sử cụ thể chúng ta có thể khẳng định rằng, về cơ bản việc học hành của người Việt Nam là có sáng tạo. Chính việc tiếp thu những tư tưởng hay của Đông Tây cải biến nó phù hợp với lợi ích của dân tộc Việt Nam cũng là một sự sáng tạo trong việc học tập.

      Việt Nam về địa văn hóa, được đặt giữa hai nền văn minh là Ấn Độ và Trung Quốc. Nếu đòi hỏi ở Việt Nam một nền học vấn hoàn toàn riêng biệt và có hệ thống xuyên suốt thì rất khó. Người Việt Nam đã tiếp thu những tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo của Trung Quốc và tư tưởng phật giáo của Ấn Độ. Tuy nhiên đó là cả quá trình “gạn đục, khơi trong ”, họ biết tiếp thu những yếu tố tích cực phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước, củng cố cộng đồng dân tộc, đồng thời cũng phê phán loại bỏ mặt hạn chế của nó.

      Đạo Phật phản ánh chế độ đẳng cấp hà khắc ở Ấn Độ. Giáo lý của nó khuyến khích người ta chịu đựng khổ ải. Giai cấp thống trị đã lợi dụng yếu tố này nhằm làm nhụt đi tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Tuy nhiên nhìn chung người Việt đã tiếp nhận thuyết “Bác ái”, “Phật tại tâm” vốn đã phù hợp với truyền thống yêu thương, nhân ái để đoàn kết gắn bó với nhau tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Người Việt Nam đến với Phật giáo chủ yếu bằng con đường lễ nghi chứ không hoàn toàn là tiếp thu cái giáo lý của nó. Lễ nghi để cho mỗi con người hướng thiện, loại bỏ những cái ác ở trong suy nghĩ và trong hành động. Vì vậy những ngày mồng một, ngày rằm người ta ăn chay niệm phật, lên chùa cầu cúng rất sôi nổi. Mặt khác mối quan hệ giữa sư tăng với đời lại rất tự nhiên không hề bị gò bó. Chính vì vậy ở thời Lý – Trần các nhà sư tuy là người tu hành nhưng một khi đất nước hữu sự lại sẵn sàng xuất thế hành đaọ, giúp dân, giúp nước. Sư Quảng Nghiêm (1121-1190) trước khi chết đã viết một bài kê răn dạy học trò, trong đó có hai câu rất nổi tiếng :

“ Nam nhi tự hữu xung thiên khí

Bất hướng Như lai hành nhữ hành ”.

( Nam nhi tự có cái chí đi lên đến trời

Việc gì phải đi theo con đường mà ông Như Lai vạch sẵn )

      Câu nói của nhà sư Quảng Nghiêm thể hiện tinh thần sáng suốt tỉnh táo, sáng tạo trong học tập của người Việt. Đó cũng chính là tiền đề để hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm nổi tiếng trong Phật giáo Việt Nam những giai đoạn sau này.

      Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam cũng góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hoá dân gian. Người Việt đã tiếp thu và phát triển tư tưởng phóng khoáng tạo nên lòng tự tin yêu đời trong lao động sản xuất, trong học tập cũng như trong sinh hoạt, vui chơi giải trí. Đạo thờ Mẫu cũng là sự sáng tạo đặc biệt của người Việt Nam, kết hợp yếu tố đạo giáo với tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu đã làm nên nét sinh hoạt văn hóa, tâm linh đặc sắc truyền bao thế hệ người Việt đến nay.

      Đối với Nho giáo thời kỳ đầu du nhập vào Việt Nam đã bị người Việt Nam bài xích, phê phán về những tư tưởng luân lý khắt khe của nó. Sau khi giành tự chủ, các triều đại đã phát triển mặt tích cực của nó để xây dựng và củng cố kỷ cương phép nước, tạo lập trật tự trong xã hội. Bên cạnh đó những tư tưởng mà giai cấp thống trị sử dụng làm công cụ đàn áp nhân dân đã không được người Việt chấp nhận. Nếu Nho giáo buộc mọi người phải trung thành với vua tuyệt đối, vua cũng như trời, thì người Việt Nam lại cho rằng phải trung với nước hàng đầu. Vì vậy trong lịch sử nhiều thời đại đến thời kỳ thối nát đã bị nhân dân đánh đổ, lập nên triều đại mới. Những nhà Nho như Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát…đã vượt ta ngoài chữ trung tầm thường của Nho giáo đứng về phía nhân dân, chiến đấu vì tự do và hạnh phúc của những người lao động. Trong gia đình, nếu Nho giáo đề cao chế độ phụ quyền khinh miệt phụ nữ, thì đối với người Việt, hình ảnh người mẹ, người  vợ luôn có chỗ đứng trong suy nghĩ và đời sống tình cảm. Khổng Tử thường dạy rằng “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” ( Nếu mình không muốn thì đừng làm cho người khác ) nhưng người Vịêt lại luôn nhắc nhở nhau “Thương người như thể thương thân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng”. Họ sẵn sàng giúp đỡ, thậm chí có lúc xả thân, quên cả tính mạng mình để giúp nhau, đem lại hạnh phúc cho người khác.

      Trong quá trình tiếp thu những tri thức từ bên ngoài như vậy, người Việt đã kiên trì học hỏi, say mê nghiên cứu tìm tòi, kết hợp các tri thức Đông Tây và truyền thống văn hoá lâu đời để sáng tạo ra những thành quả rực rỡ trên mọi lĩnh vực, phục vụ cuộc sống.

      Về văn học cùng với việc tiếp thu thơ Đường, người Vịêt đã sáng tạo ra thể thơ lục bát, các loại hát lối, hát ca trù, vừa dễ diễn đạt tư tưởng, dễ nhớ dễ thuộc, vừa có tính truyền cảm đi sâu vào lòng người. Chữ Nôm xuất hiện đã đánh dấu một  sự tách biệt so với chữ Hán về ngôn ngữ. Đọc lại các áng văn thơ cổ, chúng ta thấy được một sự phát triển vô cùng phong phú về tư tưởng và thể loại. Ngoài các tác phẩm thuần văn thơ, các tác giả còn ghi lại các vùng địa lý, sinh hoạt văn hoá, phong tục tập quán, các bộ luật. Các bộ lịch sử… phản ánh đời sống của người Việt thời xưa một cách hết sức sinh động.

      Về nghệ thuật: trên tấm bia đá Linh xương có ghi là: “Chỗ nào có phong cảnh đẹp chỗ ấy có ngôi chùa được dựng lên ”. Nghệ thuật kiến trúc cung điện đền chùa, được người Việt kết hợp một cách hài hoà, tự nhiên giữa bàn tay con người với phong cảnh thiên nhiên. Khác với Trung Quốc ưa thích sự đậm đặc, to lớn, người Việt thường sử dụng bố cục thoáng, các công trình nhỏ nhắn xinh xắn. Ngay cả hình tượng con rồng được tượng trưng cho uy quyền của Nhà vua, khác với Trung Quốc, người Việt đã làm nó nhẹ nhàng đi, vừa khoẻ khắn vừa tự nhiên dân dã không nhe nanh múa vuốt dạo dẫm người xem. Vào những ngày lễ hội truyền thống, người ta tổ chức những đám rước, múa hát chơi những trò chơi dân gian thể hiện một sự khác biệt hoàn toàn so với các nền văn hoá khác.

      Về khoa học, do yêu cầu cải tiến và phát triển nông nghiệp, giúp đỡ những người lao động, dưới thời Trần, Đặng Lộ (?-?) đã làm ra một loại dụng cụ để quan sát bầu trời, tính lịch, dự báo ngày tốt xấu. Lương Thế Vinh (1441-1496) đã phát triển “Đại thành toán pháp ”để phục vụ đời sống lao động thực tiễn : đo đạc ruộng đất, cân đong đo đếm. Về y học: Tuệ Tĩnh (1330-1400) và sau này là Hải Thượng Lãn Ông (1720-1791) đã tìm hiểu công thức thuốc nam và kết hợp nó với cây thuốc bắc trong việc chữa bệnh. Về đia lý, Đời vua Lý Anh Tông (1136-1175) đã sai quan nghiên cứu vẽ được một quyển địa đồ và các vùng, miền trên khắp cả nước.

      Về khoa học, kỹ thuật, kỹ thuật đúc đồng của Việt Nam rất nổi tiếng từ xưa. Năm 1964 Viện Bảo tàng lịch sử đã phối hợp với Viện Bảo tàng Mỹ thuật thể nghiệm đúc đồng theo phương pháp cổ truyền của làng Ngũ Xá, sau 4 lần đúc vẫn không đạt kết quả. Lần thứ năm tiến hành năm 1975, với sự giúp đỡ của nhiều chuyên gia nhưng chiếc trống đồng chỉ mới đạt được 80 % tiêu chuẩn so với chiếc trống đồng cũ.

      Nhiều nghiên cứu cho thấy công nghệ của người xưa luôn được cải tiến và bổ sung, sáng tạo nên càng trở nên tinh vi, đạt tới trình độ khá cao. Với các ngành nghề thủ công cũng như các sản phẩm vô cùng phong phú của nó còn đến nay, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng quá trình học tập, sáng tạo, gìn giữa và tôn trọng kiến thức của người Việt thời xưa công phu như thế nào. Chính nhờ ở sự tôn trọng học vấn và kiến thức, tôn trọng sự sáng tạo mà nền văn minh Việt Nam đã tạo cho mình những sắc thái riêng, không thể bị đồng hoá dù ở hoàn cảnh nào.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

(1) Nguyễn Thừa Hỷ (1993), Thăng Long Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII – XIX, NXB Hội sử học Hà Nội, tr36

(2) Đỗ Long – Trần Hiệp (1993), Tâm lý cộng đồng làng và di sản, NXB KHXH, tr 65 – 66

(3) Toan Ánh (1992), Nếp cũ, con người Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh, tr 78.

(4) Toan Ánh (1993), Trong họ ngoài làng. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, tr 142 – 143.

(5) Nguyễn Q  Thắng (1993), Khoa cử và giáo dục Việt Nam,NXB Văn hoá thông tin, tr 51.

Hàn Vũ Linh, tháng 6/1995 (in lại trên Tạp chí Thanh niên 5/1997 và trong cuốn Con người Việt Nam truyền thống – những giá trị đối với sự phát triển, nxb Lao động, 2010)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan