Gia đình là một đơn vị xã hội và là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội. Gia đình cũng có những điểm giống với các thiết chế xã hội khác như: thực hiện các chức năng xã hội, có mối quan hệ trong nội bộ các thành viên và mối quan hệ giữa thiết chế gia đình với các thiết chế xã hội khác và với Nhà nước, có những quy định, chuẩn mực mà các thành viên trong hệ thống phải tuân thủ, thực hiện và chịu sự kiểm soát của Nhà nước. Mặc dù vậy chức năng của thiết chế gia đình khác với chức năng của các thiết chế xã hội khác, các mối quan hệ quan hệ gia đình vừa được quy định bởi luật pháp vừa được quy định bởi văn hoá và đặc biệt là sự gắn kết bởi yếu tố tình cảm, huyết thống.
Gia đình truyền thống là một thiết chế trung tâm
Giáo sư Trần Đình Hượu từng nhận xét về thiết chế gia đình: “Gia đình là một thiết chế xã hội mang màu sắc dân tộc và đánh dấu tiến trình phát triển về văn hóa. Đó là một hiện tượng đặc trưng của văn hóa dân tộc… Gia đình là thiết chế cơ sở, nằm bên cạnh các thiết chế xã hội khác như họ, làng, xóm, phường hội, dân tộc, nhà nước… Có những thực thể: cá nhân, các cộng đồng mà cá nhân đó tham gia như họ, làng, các tổ chức xã hội, dân tộc, quốc gia. Gia đình điều chỉnh chức năng của các cộng đồng ấy” (1).
Trong đời sống xã hội Việt Nam, gia đình là thiết chế đặc biệt quan trọng cùng với quá trình vận hành và phát triển của xã hội. Ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo coi gia đình là nơi bắt đầu cho các quan hệ xã hội, gia đình luôn đóng và trò là thiết chế, là mẫu hình để tổ chức xã hội và nhà nước. Có thể thấy ở nông thôn, làng xã, phường hội và chính quyền đều tổ chức theo trật tự trên dưới giống như mô hình gia đình phụ quyền và được bảo vệ bằng tình nghĩa kiểu gia đình, đôi khi đó là thiên về tình cảm nhiều hơn so với yếu tố luật pháp. Vì vậy người Việt mới thường có câu “trong lý có tình”.
Mối quan hệ giữa Nước – Nhà trong xã hội Việt Nam là mối quan hệ tự thân do nhiều điều kiện khách quan đưa đến khi gia đình Việt Nam truyền thống được củng cố thành đơn vị hạt nhân của xã hội và là cơ sở cho sự phát triển của xã hội. Do đặc điểm trên nên việc thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam vừa được thực hiện ở từ đường họ tộc, lại vừa có thể thực hiện ở từng gia đình riêng lẻ. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc ta được nâng lên thành đạo hiếu – đạo tổ tiên. Quan niệm này nhằm để ghi nhớ công ơn các bậc tiền bối, các anh hùng dân tộc và người có công với dân, với nước, có nguồn gốc từ thờ cúng tổ tiên, từ đó đã tạo ra sợi dây tình cảm, tạo mối quan hệ tâm linh.

Pháp luật của Nhà nước, Hương ước của làng xã muốn được người dân chấp nhận thì nó phải được xây dựng trên nền tảng văn hoá văn hóa gia đình gắn với những phong tục tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý của từng vùng miền. Chính vì vậy, rất nhiều quy định trong gia đình, gia tộc, dòng họ đã được thể chế hoá bằng pháp luật trong những văn bản chính sách của nhà nước và hương ước của các làng xã.
Tục thờ cúng tổ tiên có thể được coi là một ví dụ điển hình. Trong suy nghĩ của mỗi cá nhân, thờ cúng tổ tiên để tỏ lòng biết ơn và kính trọng những người đã sinh thành ra mình, nuôi nấng, dạy dỗ mình. Vì thế, trong mỗi gia đình người Việt dù giàu hay nghèo, đều có một một bàn thờ tổ đặt ở vị trí trang trọng nhất trong nhà. Trong các gia đình bề thế, nơi thờ đó chiếm cả một gian nhà giữa, được trang hoàng và bày biện trang trọng, tôn nghiêm, thậm chí là khá cầu kì.
Thờ cúng tổ tiên là yếu tố vững chắc nhất để gắn bó các thành viên của đại gia tộc. Gắn với việc thờ cúng tổ tiên là “hương hỏa” – đây là những của cải vật chất của dòng họ để duy trì việc thờ cúng tổ tiên. Phần hương hoả này xưa nay bao giờ cũng được tôn trọng ở Việt Nam và được pháp luật thừa nhận. Từ Thờ cúng tổ tiên trong gia đình dẫn đến thờ cúng Thành hoàng, các nhân vật lịch sử, có công với cộng đồng, dân tộc, tất cả những nghi lễ này đều có những nét tương đồng về tâm linh và văn hóa chung của người Việt.
Trong gia đình, chữ Hiếu được đề cao và nó cũng trở thành thiết chế trung tâm trong xã hội, là cơ sở để đánh giá đạo đức cá nhân hoặc rộng hơn chính là đạo “làm người” của người Việt. Tội bất hiếu là nặng nhất trong sáu tội nặng của con người, như học giả Đào Duy Anh đã từng viết: “Bất hiếu tức là thưa kiện hay chửi bới ông, bà, cha, mẹ hoặc ông bà cha mẹ chồng; là không tuân theo những lời chỉ bảo hay lệnh của cha mẹ; là không cung ứng thích đáng các nhu cầu của cha mẹ; là lấy vợ, lấy chồng trong khi có tang cha hay mẹ; là vui thú, không mặc quần áo tang và chơi bời; là biết tin ông, bà, cha, mẹ chết mà che giấu tin đó không để tang, hay nói dối rằng mình đang có tang ông, bà, cha, hoặc mẹ” (2).
Ngược lại khi con cái hiếu thảo trong gia đình lại được tôn vinh như không ít câu chuyện trong lịch sử ghi lại có những cá nhân làm quan to trong triều đình nhưng khi về với gia đình vẫn phải nghe bô mẹ dạy dỗ, thậm chí còn chịu phạt nằm xuống cho bố mẹ đánh khi phạm vào gia pháp.
Một trong những tục lệ truyền thống, người gia trưởng – đứng đầu gia đình chịu trách nhiệm trước pháp luật về hết thảy mọi hành vi của những người trong nhà. Pháp luật quy định: Kẻ nào phạm tội phản quốc hay khi quân thì cả nhà đều bị trừng phạt. Trái lại, pháp luật cũng bảo vệ gia đình như có thể thấy tình cảm gia đình cũng là một yếu tố có thể chi phối đến pháp luật.
“Một người bị tử hình, mà cha mẹ đã già trên 70 tuổi nhưng không có con cái nào khác, thì được đặc xá để có thể nuôi cha mẹ” (3).
Để bảo vệ uy tín của gia đình và của người đứng đầu gia đình, pháp luật cũng có những qui định như, kẻ nào đánh đập, chửi rủa, hay tìm cách giết cha mẹ và ông bà mình hoặc cha mẹ, ông bà chồng thì phải tội chết. Pháp luật phạt nhẹ lỗi của người bố mà trừng trị nghiêm khắc lỗi của con trai.
“Tội giết cha bị phạt lăng trì, và nếu chỉ dự tính giết cha thì bị chém đầu. Những kẻ được phần di sản khi cha mẹ còn sống mà không nuôi dưỡng cha mẹ già, những kẻ lập gia đình và sống truỵ lạc đang lúc có đại tang, đều bị coi là phạm tội bất hiếu” (4).
Cũng nhờ sự bảo vệ nghiêm ngặt của pháp luật và sự can thiệp mạnh mẽ của phong tục, tập quán nên gia đình đóng góp một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống thiết chế xã hội. Bên cạnh đó, làng xóm là cố kết của một cộng đồng các gia đình của một số dòng họ, cũng có nơi chỉ là một dòng họ. Vì vậy, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của mỗi làng xã được hình thành từ nền nếp, gia phong của từng gia đình, từng dòng họ. Vì coi trọng yếu tố gia đình nên cá nhân sống trong gia đình, làng xã bao giờ cũng có ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương từ “cây đa, bến nước, sân đình” đến non sông, đất nước.
Theo tác giả Đào Duy Anh, qua các thời đại phong kiến cho đến thời đại độc lập, đời nào một gia tộc cũng được nhìn nhận là bản vị của xã hội. Trong một gia đình trước đây, con em phải phục tùng gia trưởng, trọng giai cấp trưởng ấu và coi đạo hiếu là đầu mối của đạo đức. Một nước cũng nhìn nhận như một gia tộc lớn cho nên “điển lễ giao miếu” là đại kính của quốc gia, mà nhân dân phải phục tòng quân chủ và trọng giai cấp tôn ti.
Có thể thấy thiết chế gia đình trong xã hội truyền thống dường như bám rễ và ăn sâu trong mọi hoạt động của xã hội. Việc tổ chức hương thôn chỉ là ít nhiều gia tộc hợp lại cho thêm sức tự vệ, nhiều khi một hương thôn chỉ do một gia tộc lớn tổ chức thành. Sự khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi xưa nay vẫn là việc của gia đình. Về việc dụng binh, quân đội cũng như một gia tộc, tướng sĩ xem nhau như cha con anh em. Về việc học hành, học trò xem nhau như con cái một nhà, xem thầy như cha, thầy chết cũng phải để tang và thờ phụng. Các hoạt động công nghệ, thương mại cũng lấy các tổ chức của gia tộc làm gốc, khiến có những kỹ thuật bí truyền xưa nay không lọt ra ngoài phạm vi một gia đình hay dòng họ.
Gia đình là đơn vị kiểm soát cá nhân
Thiết chế gia đình cũng như những thiết chế xã hội khác, đều có những chức năng cơ bản như kiểm soát và điều chỉnh hoạt động, hành vi của cá nhân phù hợp với chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội hướng tới sự hài hoà của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Trong thực tế gia đình Việt Nam truyền thống, cá nhân chỉ là một thành viên nhỏ bé của gia đình khó có thể khẳng định được vai trò của mình đối với gia đình, nhất là với những tình cảm và suy nghĩ riêng của mình. Từng cá nhân trong một gia đình thường bị ràng buộc và kiểm soát trong sợi dây liên hệ với luân lý, phong tục và lễ giáo thông qua hệ thống “gia phong”, “gia pháp”, “gia quy” của gia đình .
Về hôn nhân và quan hệ vợ chồng, mục đích của hôn nhân là lưu truyền gia đình, vì vậy hôn nhân bao giờ cũng được coi là việc của gia đình chứ không phải của một cá nhân nào. Trong gia đình truyền thống đạo vợ chồng cư xử với nhau, được đề cao nhất là yếu tố hòa thuận. Vợ chồng phải cư xử với nhau theo đạo nghĩa truyền thống mang tinh thần Nho giáo. Uy quyền tuyệt đối của người chồng được quy định khá rõ trong những chuẩn mực gia đình như với vợ, thậm chí chồng có quyền cho thuê hoặc bán vợ cho người khác. Trái lại người phụ nữ bao giờ cũng ở vị trí phụ thuộc, phải thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ chồng, có trách nhiệm với gia đình, họ hàng nhà chồng, làm việc nhà, chăm sóc, giáo dục dạy dỗ con cái.
Người vợ chuẩn mực phải hội tụ đủ yếu tố tam tòng và tứ đức trong lễ gíáo. (Tam tòng nghĩa là khi người đàn bà còn ở nhà thì theo cha mẹ, khi đã đi lấy chồng thì theo chồng, khi chồng mất rồi thì theo con). Cho nên khi đi lấy chồng thì dù hay dở, sống chết thế nào cũng là người nhà chồng, chỉ nương nhờ về chồng con, chớ không nương nhờ ai được nữa. Cũng vì nghĩa ấy mà người đàn bà phải hết lòng hết sức lo cho chồng con, tức là lo cho mình. Tứ đức bao gồm phụ dung (dáng người phải hoà nhã, chau chuốt), phụ công (khéo tay, có thể biết thêm cầm kì thi hoạ), phụ ngôn (nói năng khoan thai, mềm mỏng) và phụ hạnh (nết na, không cay nghiệt). Phải có đủ tứ đức mới gọi là Hiền. Với quy định ngặt nghèo của “Tam tòng, tứ đức” không chỉ là áp lực về thiết chế với phụ nữ mà còn ngay cả đối với chồng con, cũng như gia đình họ.
Bộ luật đầu tiên ở Việt Nam dưới thời Lý được gọi là Hình thư, có những quy định rõ ràng trong vấn đề gia đình như việc lấy vợ, lấy chồng của con các quan trong triều đình, của binh lính, của các quan và các gia nô, việc nuôi con nuôi, nghĩa vụ của vợ chồng. Sau này các bộ luật đời nhà Trần như Quốc triều tống chế, Quốc triều thường lễ (1230), Hoàng triều ngọc Điệp (1267) còn qui định rõ ràng về việc người vợ tuyệt đối phải chung thuỷ với chồng. Quốc triều hình luật đời Lê mặc dù có nhiều tiến bộ hơn so với các bộ luật trước song cũng tập trung bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền. Ví dụ như Quốc triều hình luật không thừa nhận chế độ hôn nhân tự do. Không có điều luật nào qui định xử phạt nếu chồng đánh vợ, hay có các vấn đề bạo lực gia đình, ngoại trừ trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Mặt khác Luật đời Lê còn thừa nhận đàn ông được quyền bỏ vợ nếu vợ phạm các điều thất xuất. Trong khi đó, phụ nữ có quá nhiều nghĩa vụ, luật xử phạt phụ nữ khi không chung thủy với chồng, phụ nữ đánh chồng bị đẩy ra ngoài châu xa, điền sản phải trả lại cho chồng, chồng chết phải để tang 3 năm mới được tái giá, không được tự tiện bỏ nhà chồng đi nơi khác…
Quan hệ gia đình được khẳng định mạnh mẽ trong tư tưởng Nho giáo. Theo luân lý “Tam cương”, người cha có quyền uy tuyệt đối với con, chồng có quyền uy tuyệt đối với vợ, cũng như vua có quyền uy tuyệt đối với tôi. Bên cạnh đó quan điểm về “Ngũ luân” quy định “cha con thì có tình thân, vua tôi thì có nghĩa, vợ chồng thì có phân biệt, lớn nhỏ thì có thứ tự, bè bạn thì có lòng tin”. Có thể thấy trong ngũ luân, luân vua tôi thuộc về luân lý quốc gia; luân bè bạn thuộc về luân lý xã hội; còn ba luân kia thuộc về luân lý gia đình. Luân cha con thì cốt cha nghiêm con hiếu, luân vợ chồng thì cốt chồng xướng vợ theo, luân anh em thì cốt anh thân em kính.). Nho giáo cũng khẳng định chữ hiếu là đứng đầu trăm nết. Cốt tử của hiếu là “vô vi” và “vô cải” nghĩa là thờ cha kể cả khi còn sống và khi đã chết.

Với hàng loạt các qui định chặt chẽ từ trên xuống dưới như thế, mọi hành vi của cá nhân đều được đem ra qui chiếu, đánh giá và kiểm soát. Trước khi Nước xét xử theo pháp luật thì Nhà – gia đình đã thực hiện nhiệm vụ của nó, thực sự trở thành nơi sàng lọc và răn dạy các thành viên về đạo lý, quốc pháp.
Gia đình là một thiết chế gia trưởng
Như đã phân tích ở trên, mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình truyền thống được xây dựng trên cơ sở chế độ phụ hệ và gia trưởng – người gia trưởng có quyền sở hữu, quản lý tài sản và phân phối lợi ích trong lao động của gia đình; có quyền sở hữu đối với vợ con và có thể bắt đi làm thuê hay đem bán đi được và có quyền độc đoán về việc hôn nhân của con cái. Người vợ, người con trong gia đình truyền thống phải làm việc chăm chỉ và không được nghĩ đến quyền lợi riêng tư của mình.

Trong gia đình gia trưởng, một điều mà hầu hết các nhà nghiên cứu về gia đình Việt Nam có thể nhận thấy, đó là vai trò của người chủ trong gia đình Việt Nam truyền thống. Người chủ này thực sự là cầu nối giữa gia đình của mình với dòng tộc và cả cộng đồng, trong đó, họ phải đảm nhiệm khá nhiều trọng trách và nghĩa vụ, vừa “đối nội”, vừa “đối ngoại”. Từ đó, họ góp phần làm ổn định từng gia đình và rộng hơn là đối với xã hội. Kiểu thiết chế gia trưởng này thực sự phát huy ảnh hưởng trong nhiều gia đình truyền thống theo Nho giáo, còn đối với các gia đình nông dân thuần tuý thì nó có khá nhiều sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh làm việc và sinh hoạt của người lao động. Các mối quan hệ trong gia đình vẫn được đảm bảo thực hiện rất nghiêm túc mà từng thành viên đều có sự tham gia trong công việc chung của gia đình, thậm chí là người phụ nữ cũng có tiếng nói nhất định, mà dân gian đã có câu: “Lệnh ông không bằng cồng bà”.
Từ môi trường gia đình, nhiều người còn phải đứng ra chịu trách nhiệm là người đứng đầu nhóm xã hội lớn hơn rất nhiều là chi và dòng tộc. Họ có thể không phải là người lớn tuổi nhất nhưng họ được giao nhiệm vụ giải quyết tất cả các công việc liên quan như: Cưới xin, chúc thư, chia tài sản, giúp đỡ phụ nữ và trẻ em… Những quy định và biện pháp mà họ sử dụng đối với riêng gia đình của mình đã tạo ra những hiệu quả nhất định, tạo nên tính ổn định và bền vững của kết cấu làng xã Việt Nam trước rất nhiều sự biến đổi cũng như yêu cầu mới.
Gia đình Việt Nam truyền thống có những đặc thù mà khác với các dân tộc trên thế giới. Hệ giá trị gia đình mang tính thiết chế theo nguyên lý “lạt mềm, trói chặt” chính là bộ phận cơ bản hình thành nên bản sắc với các chuẩn mực, các giá trị văn hoá truyền thống cuả dân tộc. Nhiều giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, trải qua những chặng đường lịch sử đầy chông gai, vẫn đang tồn tại trong đời sống hiện đại ngày nay. So với xã hội, gia đình truyền thống vừa mang tính cách tân, vừa mang tính thủ cựu, vừa sẵn sàng đi tiên phong trong sự đổi mới lại vừa cố kết những gì được coi là khuôn mẫu, quy tắc bất di, bất dịch.
CHÚ THÍCH VÀ TRÍCH DẪN
(1). Trần Đình Hượu (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình, Nxb KHXH, H. Tr 79
(2), (3), (4) Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Tp Hồ Chí Minh

