Trong các xã hội truyền thống, gia đình luôn là tế bào của xã hội có vị trí và vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, bảo vệ và chuyển giao các giá trị văn hoá của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong suốt quá trình lịch sử, gia đình Việt Nam đã hình thành nên một hệ thống các giá trị chuẩn mực trong cách ứng xử, trong nếp sống thể hiện quan niệm và cách lựa chọn riêng mang bản sắc của người Việt và tạo nên những nét đặc thù riêng của văn hoá gia đình Việt Nam và được chính gia đình duy trì và bảo vệ các giá trị đó thông qua chức năng xã hội hóa từ đời này sang đời khác.
Qui mô, cấu trúc gia đình
Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử dân tộc được bắt đầu bằng truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, điều này cũng phản ánh những đặc điểm về qui mô và cấu trúc của gia đình Việt Nam từ thuở sơ khai khi đời sống còn lệ thuộc vào tự nhiên.
Các yếu tố thiên nhiên thuận lợi cho sản xuất nhưng đồng thời lịch sử cũng cho thấy thiên nhiên luôn là mối đe dọa đối với cuộc sống của người Việt. Nhằm mục đích duy trì nguồn nhân lực cho sản xuất các thế hệ người Việt trước đây đã bắt buộc phải phát huy hình thức gia đình đông con cháu và nhiều thế hệ. Khi nền sản xuất còn thô sơ, lạc hậu thì trong gia đình nhu cầu truyền đạt lại kinh nghiệm trực tiếp cũng là một yêu cầu cần thiết. Vì vậy trong quan niệm truyền thống các gia đình “đông con, nhiều thế hệ” không chỉ được coi là một nguồn vốn tự nhiên với lực lượng lao động hùng mạnh mà còn được đánh giá là gia đình có phúc đức, được cộng đồng làng xã tôn trọng.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng qui mô của gia đình Việt Nam truyền thống là gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống trên một mảnh đất của tổ tiên. Trên thực tế, trong xã hội truyền thống giữa các cặp vợ chồng ít có sự chia sẻ trực tiếp về kinh tế mà trái lại sự gắn kết gia đình với chức năng kinh tế là cơ bản nhưng lại dựa trên gia đình lớn. Có thể gọi theo ngôn ngữ hiện đại đây là hình thức gia đình hạt nhân mở. Trong mô hình gia đình này, mối quan hệ giữa quy mô gia đình và kinh tế gia đình được phản ánh trong mối quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau.
Bên cạnh đó các vấn đề khác trong gia đình cũng được tập trung giải quyết từ quy mô của gia đình. Gia đình có đông thành viên tuy nhiên sự tụ họp, chia sẻ, phân công công việc lại khá hợp lý dưới sự điều hành của người gia trưởng. Trong cả gia đình lao động thuần tuý và gia đình quyền quý, ta đều nhận thấy đặc điểm này. Việc tách hộ trong các gia đình truyền thống trước đây cũng là một quá trình lâu dài so với gia đình hiện nay. Những nghiên cứu của Toan Ánh về nếp cũ gia đình cho thấy rất hiếm trường hợp, những gia đình mới thành lập được bố mẹ cho ở riêng, mà nếu có thì gia đình nhỏ cũng phụ thuộc rất nhiều trong mối quan hệ với gia đình lớn.
Chức năng kinh tế
Nhiều nghiên cứu trước đây về gia đình truyền thống đã cho rằng gia đình Việt Nam truyền thống là một đơn vị kinh tế độc lập, tự sản và tự tiêu. Điều cần lưu ý ở đây là trong quan niệm này cần phải có được phân tích cụ thể, đặc biệt là sự phân biệt giữa gia đình lao động bình thường – những gia đình nông dân nghèo, thuộc phận vị thấp, sống tự cung tự cấp và có nghĩa vụ cống nạp tô thuế và gia đình Nho giáo – những gia đình thuộc tầng lớp quan lại và Nho sĩ là chủ yếu, sống dựa vào ưu đãi trong trật tự phân vị.
Nhìn chung với một gia đình bình thường trong xã hội truyền thống có đầy đủ điều kiện về nhân lực, về kinh nghiệm tiến hành sản xuất nông nghiệp hoặc các công việc khác có liên quan vừa để đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm hàng ngày của gia đình, đồng thời đóng thuế, cung cấp những gì mà xã hội yêu cầu. Thực tế gia đình có thể tự nuôi sống mình đồng thời góp phần nuôi sống xã hội đặc biệt là trong thời kỲ giáp hạt hay khi thời tiết không mưa thuận gió hoà, giặc giã liên miên. Gia đình là thành phần thấp nhất trong cấu trúc dọc của xã hội nhưng chính là nơi cung cấp sức sống cho cả hệ thống ấy. Mỗi thành viên là một nhân công trong hệ thống sản xuất của gia đình dưới sự chỉ đạo của đốc công là người gia trưởng. Nhưng ở đây, ngoài trách nhiệm quản lý, người gia trưởng đồng thời cũng là người đóng góp nhiều nhất về sức lực để mang lại kinh tế cho gia đình.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”, F.Anggels đã chỉ ra rằng: Ý nghĩa kinh tế của gia đình còn thật sự tồn tại đối với đời sống của mỗi con người ở chỗ họ có thể chuyển tài sản thừa kế cho con cái. Chính vì thế, xã hội vẫn duy trì chức năng kinh tế gia đình ở mức độ khả năng thu nhập và sự giàu có với tư cách là nguồn vốn cho sự phát triển.

Trong mô hình gia đình truyền thống ở Việt Nam, người chồng, người cha trong gia đình đóng vai trò là trụ cột kinh tế, họ đồng thời nắm toàn bộ quyền kiểm soát về kinh tế gia đình. Tất cả mọi công việc từ tổ chức sản xuất, đầu tư, phát triển nghề phụ, dạy nghề trong gia đình, chi tiêu đều theo chế độ tập quyền gia trưởng. Chính vì vậy sự tham gia ý kiến của các thành viên khác trong gia đình đối với hoạt động kinh tế gia đình là khá hạn chế. Trách nhiệm nuôi sống gia đình luôn được đặt lên vai người chủ gia đình, đôi khi nó trở thành một gánh nặng với cá nhân họ, đồng thời điều này cũng bộc lộ khả năng hạn chế trong việc phát triển kinh tế gia đình truyền thống khi hoàn toàn dựa vào vai trò của cá nhân. Sự trì trệ, máy móc và bảo thủ trong hoạt động kinh tế gia đình luôn biểu hiện cùng cơ chế tổ chức và quản lý mang tính gia trưởng.
Chức năng tái sản xuất xã hội
Trong gia đình Việt Nam truyền thống, con cái không chỉ là đối tượng tiếp nối cuộc sống của gia đình và dòng họ trong tương lai mà còn là sự đảm bảo về việc giữ gìn truyền thống thờ cúng tổ tiên, ông bà. Một điều cần khẳng định trong mô hình gia đình truyền thống là chức năng tái sản xuất xã hội về cơ bản nhằm đảm bảo nhu cầu sinh lý và nhu cầu xã hội của chính những người đã gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân.
Đông con là một giá trị cơ bản của gia đình truyền thống, vì vậy tính đặc thù cơ bản trong chức năng tái sản xuất của gia đình trước đây là đẻ nhiều con. Điều này tỷ lệ thuận với nhu cầu lao động của gia đình nhưng lại tỷ lệ nghịch với điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc nên mặc dù các cụ trước đây đẻ nhiều nhưng số lượng trẻ em được nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là ít hơn nhiều lần so với số trẻ em được sinh ra.
|
|
![]() |
Trên thực tế chức năng tái sản xuất con người của gia đình không chỉ mang tính tự nhiên và nhu cầu kinh tế mà còn thể hiện với tư cách là một giá trị trong đời sống gia đình, đó là đáp ứng nhu cầu thực tế của cha mẹ đối với tình cảnh của mình lúc về già được con cái chăm sóc, phụng dưỡng. Đối với gia đình truyền thống trước đây, cha mẹ khi về già thường ở cùng với gia đình con trai trưởng hoặc người con trai khác trong gia đình mà rất ít trường hợp ở cùng với gia đình con gái. Vì vậy giá trị sinh đẻ trong mô hình gia đình truyền thống không chỉ là đẻ nhiều con mà còn gắn với nhu cầu đẻ con trai gắn liền với quan điểm của Nho giáo “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con gái là con người ta”… Khi chưa đẻ được con trai thì người ta tìm mọi cách bắt ép người vợ đẻ bằng được hoặc lấy thêm vợ khác. Chính quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá trị của con trai và phải đẻ nhiều con đã tạo nên quy mô gia đình của gia đình truyền thống là khá lớn, không chỉ là hiện tượng đông đúc các thành viên mà ngay cả các mối quan hệ gia đình cũng trở nên phức tạp hơn giữa những thành viên cùng chung sống dưới một mái nhà. Trong những gia đình đông con, thực tế là cha mẹ không đủ điều kiện để quan tâm chăm sóc, giáo dục cho từng đứa con của mình trong gia đình.
Chức năng xã hội hoá
Trong xã hội cũ, việc giáo dục con cái thường được thực hiện trong gia đình và do bố mẹ, ông bà, anh chị lớn tuổi hơn cùng đảm nhiệm. Con trai và con gái được dạy đến nơi đến chốn, từng ly từng tí, không phải bằng lời nói suông mà luôn thông qua các hành động, việc làm cụ thể và nêu gương, chủ yếu giáo dục tri thức, đạo đức và hướng nghiệp trong lao động.
Trong nội dung giáo dục của gia đình, đạo đức và cách sống làm người được nhắc đến nhiều nhất và đôi khi còn quan trọng hơn so với các giá trị về tri thức. Thực tế cho thấy: Trước đây, sự đánh giá của xã hội với gia đình luôn lấy tiêu chí nhìn vào con cái để xem gia đình này có nền nếp, gia phong hay không, ông bà, bố mẹ có xứng đáng được nể trọng trong xã hội hay không.
Nhiều cứ liệu lịch sử cho thấy giáo dục trong gia đình truyền thống cũng thể hiện sự khác biệt khá rõ trong loại hình gia đình. Thường thì gia đình nhà Nho hướng tới việc giáo dục để con cái lớn lên sẽ ra làm quan, duy trì và phát triển thanh thế của gia đình, còn gia đình nhà nông lại chú trọng tới việc giáo dục những kinh nghiệm, kỹ năng trong lao động sản xuất để lớn lên, con cái có thể lao động tốt, phát triển kinh tế cho gia đình.
Mặc dù có sự khác biệt giữa mô hình gia đình trong các nội dung giáo dục con cái nhưng trên thực tế, sự ganh đua giữa các gia đình thể hiện khá rõ ở vấn đề này, đặc biệt những gia đình lao động có địa vị thấp kém trong xã hội, các bậc cha mẹ mong muốn thông qua giáo dục, con cái họ sẽ có điều kiện vươn lên để thay đổi hoàn cảnh của gia đình mình, sánh vai với những gia đình, dòng họ khác trong cùng một làng xã, hoặc xa hơn là trong cả quốc gia. Không chỉ những nhà có điều kiện, có những nhà nghèo khó nhưng người ta vẫn cố gắng dành dụm cho con học đến nơi đến chốn. Quan niệm này vẫn tồn tại khá phổ biến trong nhiều gia đình ngày nay.
Lịch sử cho thấy nhiều danh sĩ, cả nghèo khó và có kinh tế đều rất coi trọng việc học hành thi cử. Phương thức duy nhất để cải tạo cuộc sống và hoàn cảnh gia đình trong xã hội truyền thống trước đây chính là việc có người học hành, đỗ đạt làm quan, nên các cụ xưa từng nói: Một người làm quan cả họ được nhờ. Vì vậy, trong khi cả gia đình chịu đựng vất vả nặng nhọc trong công việc lao động kiếm sống nhưng con cái vẫn luôn được ưu tiên trong việc học tập, được cha mẹ trực tiếp dạy dỗ hoặc mời thầy về dạy học.
Sự giáo dục trong gia đình truyền thống chủ yếu thông qua các thế hệ và vai trò được sắp đặt theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: ông bà, cha mẹ giáo dục con cháu, anh chị chỉ bảo cho các em, trong đó, sự giáo dục của cha mẹ là rất quan trọng. Người cha thường giáo dục bằng sự nghiêm khắc, người mẹ thường giáo dục bằng sự nhân từ. Người cha được khẳng định là có vai trò nhiệm vụ còn người mẹ có vai trò biểu cảm. Vì vậy, người mẹ luôn tìm cách tạo ra sự cân bằng trong gia đình nhằm tránh gây ra những tổn thương đối với trẻ em cũng như sự căng thẳng ở người cha.

Về phương pháp giáo dục con cái trong mô hình gia đình truyền thống thì cha mẹ luôn có sự linh hoạt, lúc thì dùng lời lẽ, biện pháp quản lý nhưng với hầu hết các trường hợp đều phản ánh đặc trưng về roi vọt theo tiêu chí các cụ ta thường nói “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Cách bộc lộ phương châm giáo dục theo quan niệm của gia đình truyền thống đáp ứng cả hai yêu cầu về lý trí và tình cảm đều là việc sử dụng các biện pháp cứng rắn đối với con cái. Nếu như trong xã hội hiện đại các bậc cha mẹ bực tức khi con cái không nghe lời thì quát mắng thậm chí đánh tát một vài cái, nhưng ở mô hình gia đình trước đây, việc đánh con cái được cha mẹ ý thức một cách khá rõ ràng và thực hiện theo nguyên tắc mang tính cơ bản và bài bản. Nhiều nhà nghiên cứu đã mô tả ở nhiều gia đình, con cái đã bắt đầu lớn, một chiếc roi được người bố chuẩn bị để giáo dục con mình, đó có thể là một cây gỗ, roi mây, cán chổi… thậm chí nhiều ông bố con treo chiếc roi ở những nơi tôn nghiêm trong gia đình để thể hiện uy quyền, gia pháp và gia phong của gia đình. Khi con cái mắc lỗi, người cha thường chiếu theo những lỗi con cái mắc phải mà quy định số roi cụ thể. Đa số các trường hợp cha mẹ thường đánh con cái rất đau với quan niệm để con nhớ mà không tiếp tục tái phạm các lỗi đó nữa.
Một trong những nguyên nhân của hiện tượng đánh con khá phổ biến trong cách giáo dục của gia đình truyền thống là sự hạn chế về nhận thức của cha mẹ theo quan niệm không bảo ban được con cái thì dùng hình thức trừng phạt bằng đòn roi, chủ yếu mang tính răn đe nhiều hơn là đánh cho hả giận. Mặt khác, khi ở các gia đình đông con, cha mẹ không có nhiều thời gian để khuyên bảo tận tình với từng người nên biện pháp “đánh” được coi là nhanh và hữu hiệu nhất. Hiện nay khi nói đến vấn đề roi vọt của cha mẹ trước đây, nhiều người lớn đang là chủ gia đình hiện nay vẫn còn có những cảm giác sợ, tuy nhiên nhiều người vẫn tán đồng cách giáo dục đó trong truyền thống khi cho rằng với những biện pháp nặng như vậy con cái mới thực sự trưởng thành và nên người.
Thực tế cho thấy, trong giao dục gia đình quyền quyết định ở người cha, người ông nhưng đến khi con cái không thực hiện được những gì mà họ và dư luận mong muốn thì trách nhiệm lại thuộc về người phụ nữ. Điều này cũng lại thể hiện sự bất bình đẳng giới và những quan điểm thiên lệch đối với phụ nữ trong gia đình truyền thống. Rất nhiều thế hệ đã truyền lại câu nói “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Có thể thấy vấn đề này trở nên khá hài hước khi người phụ nữ đảm nhiệm mọi công việc trong gia đình nhưng thực tế họ lại chẳng có quyền gì ngoài việc phụng sự gia đình và làm theo mọi ý muốn của chồng. Tuy nhiên họ lại là những người bị mang tiếng nhất và khi có trách nhiệm gì xấu họ lại phải nhận giống như những lỗi lầm của bản thân mình.
Chức năng tâm lý, tình cảm
Gia đình luôn là tổ ấm của mỗi con người, nó không chỉ là nơi nuôi dưỡng con người từ lúc sinh ra cho tới khi lớn lên mà nó còn đáp ứng nhu cầu tình cảm cho mỗi cá nhân. Chức năng nuôi dưỡng tình cảm trong gia đình truyền thống được thực hiện rất tốt bởi gia đình truyền thống luôn đề cao vai trò của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết các mối quan hệ của gia đình như mối quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và giữa gia đình với cộng đồng làng xã.
Chức năng nuôi dưỡng tình cảm biểu hiện rõ qua sự thương yêu, chăm sóc con cái hết lòng của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu thảo của con cái với cha mẹ, sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị em, sự thuỷ chung, hoà thuận trong tình nghĩa vợ chồng. Điều đó khiến cho gia đình trở thành thứ quan trọng nhất, thiêng liêng nhất đối với mỗi con người. Nó không chỉ đơn thuần là nơi sinh ra và lớn lên của mỗi cá nhân mà còn là nơi đem lại cho mỗi cá nhân những tình cảm thương yêu, tạo cho mỗi người có thêm sức mạnh cổ vũ, động viên người ta có thể vượt qua những khón khăn, thử thách trong cuộc sống, phấn đấu để cho gia đình luôn ổn định và nền kinh tế gia đình luôn phát triển. Chính điều đó lại góp phần to lớn vào sự phát triển chung của toàn xã hội.
Gia đình quý tộc thời xưa
Những tình cảm đối với gia đình cũng là cội nguồn của tình làng xóm quê hương và xa hơn là tình yêu đất nước. Nó cũng được biểu hiện trong quan niệm và câu nói của cha ông ta “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Dù con người có phấn đấu, lập nghiệp và thành đạt ở bất cứ nơi đâu trên thế giới nhưng mong muốn cuối cùng của họ khi về già là được sinh sống trên mảnh đất quê hương, sống với gia đình thân yêu, nơi đã gắn bó với họ từ những nhọc nhằn, vất vả, từ những buồn vui và cả hạnh phúc trong suốt cả quá trình sinh trưởng và lớn khôn. Ngay cả khi chết họ cũng mong muốn được an táng tại nơi mà tổ tiên, ông bà, cha mẹ họ đã yên nghỉ.
Những khảo cứu của các học giả đều cho thấy, mặc dù đã có nhiều khác biệt và thay đổi theo điều kiện phát triển xã hội, tuy nhiên mô hình gia đình Việt Nam truyền thống đã có và thực hiện đầy đủ các chức năng như gia đình Việt Nam hiện nay



