Một số giải pháp đoàn kết, thu hút, tập hợp đội ngũ trí thức trẻ trong hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

Trí thức trẻ là những trí thức chủ yếu trong độ tuổi thanh niên, đã và đang là một nhóm nhân khẩu học xã hội đặc thù, hợp thành của đội ngũ trí thức Việt Nam[1]. Trí thức được hiểu chung là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội[2].  Trong suốt quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển KH&CN, sản xuất, kinh doanh, văn hóa, nghệ thuật trong đó là sự đầu tư trực tiếp, phát triển đội ngũ trí thức trẻ nói riêng và trí thức nói chung.  Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thoả đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức[3], quan điểm đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của cách mạng ở nước ta, liên tiếp được nêu trong Nghị quyết ở các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng (từ Đại hội V đến Đại hội XIII).

Xác định rõ đội ngũ chuyên gia, trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, phát triển đội ngũ trí thức nói chung và trí thức trẻ Việt Nam nói riêng. Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Khoá X đã ra Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đã đề ra nhiều nhóm nhiệm vụ, giải pháp phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong đó có nhiệm vụ hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho hoạt động của đội ngũ tri thức.

Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hoá, hiện đại hoá cũng nhấn mạnh yêu cầu trang bị “tri thức” cho thanh niên trong thời kỳ mới, đề ra giải pháp “Coi trọng hơn nữa việc trọng dụng tài năng trẻ, tạo bước chuyển có tính đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ trên tất cả các lĩnh vực”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chính sách, pháp luật để xây dựng, thu hút, phát triển, tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức, trong đó có trí thức trẻ. Luật Thanh niên 2020 thay thế cho Luật Thanh niên 2005 được xây dựng với nhiều nhóm chính sách tạo điều kiện, môi trường cho thanh niên phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đối tượng tri thức, tài năng trẻ.

Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2021 – 2030 thay thế cho Chiến lược phát triển thanh niên giai đoạn 2011 – 2020. Trong giai đoạn mới, chiến lược đặt ra mục tiêu xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện; phát triển nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ phát triển nhanh và bền vững của đất nước và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở Luật Thanh niên và Chiến lược phát triển thanh niên, nhiều văn bản chính sách, pháp luật đã tiếp tục được cụ thể hoá nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ tri thức trẻ trong tình hình mới.

  1. Một số đặc điểm, sự đóng góp của đội ngũ trí thức trẻ

Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới, phát triển đất nước, đội ngũ trí thức trẻ Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, với tính năng động, sáng tạo ngày càng khẳng định vị trí, vai trò và tinh thần xung kích, sáng tạo, đi tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Sự phát triển đội ngũ trí thức trẻ Việt Nam được minh chứng qua việc chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam liên tục được cải thiện, đến năm 2024 đã đứng vị trí thứ 44/133 quốc gia, vùng lãnh thổ được xếp hạng, tăng mạnh so với vị trí thứ 71 của năm 2014. Sau hơn10 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, cả nước đã tăng hơn 3,7 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng thêm khoảng 2,8 triệu người. Riêng lĩnh vực văn học-nghệ thuật có hơn 43.000 văn nghệ sĩ, đa phần đã qua đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; không ít văn nghệ sĩ có trình độ cao, tạo được hiệu ứng xã hội tốt.

Chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, nghề nghiệp được nâng lên; các đoàn học sinh dự thi Olympic quốc tế và thi tay nghề đều đạt kết quả cao[4]. Trong giáo dục đại học, nhiều trường đại học đã thí điểm đào tạo cử nhân khoa học tài năng như trong Đại học quốc gia Hà Nội và một số trường đại học lớn, như Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Đây là một mô hình đào tạo nguồn nhân lực tài năng tiên tiến, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và đáp ứng tốt khả năng hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm thành công ban đầu của mô hình đào tạo nguồn nhân lực tài năng bậc đại học, sau đại học đã gợi mở ý tưởng về việc xây dựng và thực hiện thí điểm một quy trình đồng bộ, liên tục qua nhiều công đoạn: phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng trong các lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, khoa học, công nghệ kinh doanh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 của Chính phủ về sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, đến năm 2020, đã có 15 người được công nhận là nhà khoa học trẻ tài năng đang công tác tại các bộ, ngành, địa phương[5]; khoảng 300 tiến sĩ độ tuổi thanh niên được thăng hạng đặc cách từ nghiên cứu viên lên nghiên cứu viên chính; khoảng 300 trường hợp được đặc cách tuyển dụng vào các tổ chức khoa học và công nghệ; khoảng 2.600 cán bộ khoa học trẻ tuổi, có trình độ cao, có thành tích trong hoạt động khoa học, công nghệ nổi bật được giao chủ trì nhiệm vụ khoa học công nghệ; khoảng 1.000 người được bố trí, quy hoạch vị trí lãnh đạo trong tổ chức khoa học và công nghệ. Các nhà khoa học trẻ có thành tích xuất sắc trong hoạt động khoa học, công nghệ được tôn vinh qua các sự kiện tiêu biểu như: Thủ tướng Chính phủ gặp mặt các nhà khoa học trẻ; xét chọn và trao giải thưởng Tạ Quang Bửu hằng năm.

Trong giai đoạn 2011 – 2020, có 835 nhà khoa học trẻ (dưới 35 tuổi) là Chủ nhiệm đề tài thuộc chương trình nghiên cứu do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ tài trợ (chiếm 28,4% tổng số đề tài nghiên cứu cơ bản được tài trợ). Giải thưởng “Quả cầu vàng”; các câu lạc bộ “Sáng tạo trẻ”, “Vườn ươm tài năng trẻ”; cuộc thi “Sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng toàn quốc” được duy trì hằng năm nhằm tôn vinh các tài năng trẻ, tạo môi trường để thanh niên cập nhật thông tin, trao đổi kinh nghiệm, kiến thức về khoa học và kĩ thuật.

Những công trình nghiên cứu, ý tưởng, sản phẩm sáng tạo có giá trị của thanh niên được các cơ quan chức năng phối hợp với các tổ chức kinh tế bảo hộ bản quyền, hỗ trợ quảng bá, áp dụng vào thực tiễn và xây dựng các giải pháp chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, góp phần thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và chuyển giao công nghệ vào cuộc sống[6]. Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ[7], Số lượng công bố khoa học, nhất là công bố khoa học quốc tế của Việt Nam ngày càng tăng. Mỗi năm có khoảng 19.000 bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học trong nước; năm 2019 có 12.431 bài báo quốc tế.

Triển khai Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các phong trào hành động cách mạng của Đoàn bao gồm: Thanh niên tình nguyện, Tuổi trẻ sáng tạo; Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc; các chương trình đồng hành với thanh niên bao gồm Đồng hành với thanh niên trong học tập, Đồng hành với thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp, Đồng hành với thanh niên rèn luyện và phát triển kỹ năng trong cuộc sống, nâng cao thể chất, đời sống văn hóa tinh thần đã được triển khai sâu rộng, ngày càng đi vào thực chất, có chiều sâu. Nhiều mô hình hoạt động, ứng dụng từ các phong trào, chương trình của Đoàn không chỉ đem lại hiệu quả thực tiễn mà còn góp phần nâng cao các giá trị về quyền con người, quyền thanh niên, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho thanh niên và trí thức trẻ nói riêng.

Với sự định hướng, dẫn dắt của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, đoàn viên,  thanh niên ngày càng thể hiện tinh thần năng động, sáng tạo và dám nghĩ dám làm, khẳng định quyền con người cơ bản trong học tập, lao động, cống hiến, tham gia các hoạt động xã hội. Số lượng thanh niên học tập, khởi nghiệp, lập doanh nghiệp ngày càng tăng, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ, thương mại điện tử và dịch vụ. Phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo” đã khuyến khích thanh niên phát huy quyền sáng tạo, quyền khởi nghiệp thông qua các cuộc thi sáng tạo khoa học công nghệ,đổi mới, sáng tạo. Phong trào này đã phát hiện và bồi dưỡng hàng nghìn tài năng trẻ, nhiều sản phẩm sáng tạo của thanh niên đã được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Theo thống kê, trong những năm gần đây, thanh niên chiếm tỷ lệ cao trong số các doanh nhân khởi nghiệp thành công. Nhiều startup do thanh niên thành lập đã trở thành những doanh nghiệp tiêu biểu, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước.

Bên cạnh đó, để góp phần đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí, sử dụng tài năng trẻ, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý trẻ giỏi trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức kinh tế, Chính phủ đãban hành các đề án, dự án thí điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển kinh tế – xã hội nhằm tăng cường nguồn nhân lực trẻ giúp cấp ủy, chính quyền địa phương phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; nâng cao năng lực quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức trẻ ở xã thuộc các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.

Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã xây dựng, ban hành nhiều cơ chế thu hút trí thức trẻ về công tác tại cơ quan, đơn vị, địa phương, đặc biệt là tại cơ sở (xã, phường, thị trấn thuộc vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn), tạo môi trường thuận lợi để trí thức trẻ rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành, đồng thời tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước[8]. Công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí, trọng dụng đội ngũ cán bộ trẻ được nhiều bộ, ngành, địa phương chú trọng, triển khai hiệu quả, góp phần nâng cao tỉ lệ cán bộ trẻ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cả nước[9]. Một số bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; thí điểm biệt phái cán bộ, công chức trẻ đang công tác tại các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh và cấp huyện về giữ chức danh Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, tạo điều kiện để cán bộ, công chức trẻ rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm, trau dồi và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, trưởng thành qua thực tiễn ở cơ sở, góp phần hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trẻ giỏi trong các cơ quan, đơn vị.

  1. Một số khó khăn, hạn chế, nguyên nhân trong công tác đoàn kết, thu hút, tập hợp trí thức trẻ

           Bên cạnh những thành công, công tác đoàn kết, thu hút, tập hợp trí thức nói chung và trí thức trẻ hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Thực tế các số liệu thống kê cho thấy số lượng, chất lượng của đội ngũ trí thức Việt Nam không đồng đều, phân bố chưa hợp lý ở các ngành, các lĩnh vực và vùng miền, thiếu cán bộ khoa học nghiên cứu cơ bản. Ở nhiều bộ, ngành, địa phương, chất lượng đội ngũ trí thức chưa đáp ứng được yêu cầu. Một bộ phận giảng viên, cán bộ quản lý, trong đó không ít người đạt trình độ tiến sĩ tại một số cơ sở giáo dục đại học còn thiếu một số năng lực cần thiết trong đào tạo; hạn chế về năng lực ngoại ngữ, công nghệ thông tin, nghiên cứu khoa học…

Đặc biệt, trí thức tinh hoa, nhà khoa học đầu ngành còn ít, thiếu đội ngũ nhà khoa học kế cận, chưa có nhóm nghiên cứu mạnh ngang tầm khu vực và thế giới; công tác quy hoạch còn hạn chế… Số cán bộ khoa học có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành tâm huyết với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ còn thiếu hụt so với yêu cầu và tuổi đời đã cao. Việc đào tạo tiến sĩ những năm qua, do chạy theo số lượng nên làm ồ ạt, chất lượng kém. Hệ quả là hiện nay ở nước ta rất thiếu cán bộ trẻ kế cận có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, có năng lực triển khai công nghệ, tìm tòi, sáng tạo ra công nghệ mới.

Nhìn chung, đội ngũ trí thức trẻ của Việt Nam còn có khoảng cách với đội ngũ trí thức của thế giới và ngay với một số nước trong khu vực do một số nguyên nhân sau:

Ÿ Vai trò, vị thế của đội ngũ trí thức, trong đó có trí thức trẻ vẫn còn bị xem nhẹ, chưa bình đẳng, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức và trách nhiệm đối với đội ngũ trí thức chưa đầy đủ, sâu sắc; chưa gắn việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức vào nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trong kế hoạch hằng năm cũng như dài hạn của địa phương[10].

Ÿ Một số cấp uỷ, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm của Đảng về công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ; chưa cụ thể hoá các quan điểm, giải pháp của Nghị quyết số 25-NQ/TW phù hợp với thực tế địa phương, đơn vị; chưa quan tâm thường xuyên, đúng mức đến công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết. Công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và định hướng dư luận xã hội cho trí thức trẻ chưa đáp ứng yêu cầu. Chính sách về trí thức trẻ và công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ thiếu đồng bộ và chậm đi vào cuộc sống[11].

Ÿ Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội chưa thể hiện quan điểm lấy khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo làm “quốc sách hàng đầu”, chưa gắn với các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác phát huy vai trò trí thức trẻ trên nhiều lĩnh vực. Nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc. Một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả[12].

Ÿ Chính sách tài năng nói chung và tài năng trẻ nói riêng ở Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức. Phần lớn các quy định còn dừng lại ở mức chung chung, quan điểm, chủ trương; thiếu đồng bộ và mang tính dài hạn, tính chiến lược. Các quy định về chính sách tài năng trẻ chưa thành một hệ thống chính sách, mà còn phân tán, rải rác ở nhiều văn bản. Việt Nam chưa có Luật tài năng, các chế định pháp luật, các điều luật quy định những nội dung cụ thể về quản lý nhà nước đối với tài năng. Những chính sách và cơ chế quản lý hoạt động khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng đã lạc hậu, chậm đổi mới[13].

Ÿ Một số bộ, ngành, địa phương chưa cụ thể hóa các chính sách của Nhà nước về cơ chế thông tin về xây dựng và phát triển các tổ chức hội của trí thức để tập hợp trí thức trẻ. Chưa xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho các hội trí thức thực hiện các dịch vụ công, cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát các hoạt động nghề nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính. Chưa xây dựng và thực hiện các quy định về chế độ sinh hoạt đảng, đoàn thể mang tính đặc thù trong các hội của trí thức;… Chưa xây dựng và thực hiện các quy định về giải thưởng cho các công trình nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học vào phát triển sản xuất và đời sống[14].

Ÿ Thiếu chính sách đủ mạnh thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giải quyết những vấn đề của đất nước và tạo điều kiện để trí thức trong nước được giao lưu, hợp tác, làm việc ở các trung tâm khoa học và văn hóa lớn trên thế giới. Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ còn nhiều bất cập, gây khó khăn, dẫn đến một số trường hợp trí thức phải tìm cách đối phó, làm giảm chất lượng của các công trình sáng tạo, lãng phí thời gian, công sức, tiền của, ảnh hưởng tới uy tín và danh dự của trí thức[15].

Ÿ Hệ thống giáo dục chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, sự gắn kết giữa nhà trường, sinh viên và tổ chức doanh nghiệp đầu ra chưa cao.Việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tương ứng với vị trí việc làm chưa được thường xuyên, liên tục.Tại nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, khối lượng công việc chuyên môn rất lớn, phức tạp, trong khi số lượng biên chế được giao ít, vì vậy trí thức trẻ luôn quá tải, không có đủ thời gian học tập, nâng caotrình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo các khóa học dài ngày.

Ÿ Về tổ chức thì chưa có một tổ chức thống nhất đại diện cho đội ngũ trí thức Việt Nam, mà chỉ có nhiều tổ chức đại diện riêng lẻ mang tính đặc thù cho từng lĩnh vực như: Liên hiệp Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội Văn học – nghệ thuật Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam…[16]. Tuy nhiên, chưa phát huy tốt vai trò của tổ chức Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, nơi tập hợp và đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ. Nhiều địa phương chưa ban hành cơ chế tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật. Tổ chức các hội của trí thức ở Trung ương và địa phương chưa đủ mạnh để tập hợp trí thức. Công tác thu hút, tập hợp và định hướng hoạt động của các tổ chức hội trí thức chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Mô hình, phương thức hoạt động còn nhiều bất cập, chưa gắn với tình hình phát triển kinh tế – xã hội[17].

Ÿ Thiếu cơ quan chuyên trách tâm huyết, đủ mạnh để làm công tác nhân tài nói chung, công tác tài năng trẻ nói riêng. Việc triển khai thực hiện còn thiếu tính thống nhất trong chỉ đạo và định hướng các nội dung hoạt động một cách có hệ thống giữa các cấp[18].Vai trò của tổ chức đoàn ở một số nơi, nhất là trên địa bàn dân cư, còn hạn chế. Công tác tập hợp, đoàn kết trí thức trẻ khu vực kinh tế ngoài nhà nước, trong các khu công nghiệp, đối với trí thức trẻ Việt Nam ở nước ngoài chưa đạt yêu cầu[19].

Ÿ Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức trẻ còn nhiều điểm không hợp lý, thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp; thiếu những cơ chế thích hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài. Các chủ trương, chính sách đào tạo trí thức trẻ chưa đồng bộ[20].

  1. Một số giải pháp đề xuất với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong đoàn kết, thu hút, tập hợp trí thức trẻ Việt Nam

Để tiếp tục đoàn kết, thu hút, tập hợp, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong thời gian tới, Liên hiệp Hội Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét, thực hiện một số giải pháp sau

Ÿ Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức

Liên Hiệp Hội Việt Nam cần góp tiếng nói tích cực trong tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và toàn xã hội về vị trí, vai trò của trí thức nói chung và trí thức trẻ nói riêng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tạo động lực để đội ngũ trí thức đoàn kết, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm, cống hiến hết mình cho Tổ quốc; hoàn thành tốt mọi trọng trách được giao. Cụ thể:

– Cần xác định, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Tiếp tục phát huy truyền thống tôn vinh đội ngũ trí thức, trọng dụng những trí thức có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý tốt, kể cả những trí thức ngoài Đảng.

– Tuyên truyền, vận động các cấp ủy và chính quyền thường xuyên nghiên cứu, thực hiện những phương thức để quản lý và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức, tránh áp dụng các biện pháp quản lý hành chính một cách máy móc, nhằm phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức.

– Những người đứng đầu các cơ quan, tổ chức cần định kỳ tổ chức các cuộc tiếp xúc, làm việc với trí thức để lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề KT-XH quan trọng của địa phương, đơn vị. Tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác; công bằng trong học thuật, nghiên cứu, sáng tạo, trong triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ…

Ÿ Nhóm giải pháp về công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai các chương trình, hoạt động

Tăng cường sự lãnh đạo của Liên hiệp Hội Việt Nam với hội viên là đội ngũ trí thức, trí thức trẻ, tập trung vào việc phát huy trách nhiệm của trí thức trong truyền bá tri thức, nâng cao dân trí, phục vụ cộng đồng. Cụ thể:

– Lãnh đạo, chỉ đạo các Hội thành viên, đơn vị trực thuộc xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp cho đất nước.

– Đẩy mạnh thể chế hóa về các cơ chế, chính sách để phát huy tốt năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức; nâng cao nhận thức chính trị và đề cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức với đất nước.

Liên Hiệp Hội Việt Nam cần chú trọng đưa trí thức trẻ thành nhóm ưu tiên trong việc triển khai chương trình hoạt động. Xây dựng chương trình đoàn kết, thu hút, tập hợp trí thức trẻ riêng trong chương trình đoàn kết, thu hút, tập hợp trí thức nói chung, chỉ đạo nhất quá trong hệ thống các tổ chức thành viên, các đơn vị trực thuộc xây dựng các chính sách riêng trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức trẻ có năng lực, cống hiến cho cơ quan tổ chức và Liên hiệp Hội Việt Nam.

– Tổ chức thường xuyên các diễn đàn, huy động sự tham gia của trí thức trẻ trong và ngoài hệ thống, tạo điều kiện cho trí thức trẻ đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, xây dựng Liên hội Việt Nam

– Tăng cường các hoạt động trao đổi học thuật, chuyên môn, nâng cao năng lực, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, chính trị tư tưởng để cũng cố đội ngũ trí thức trẻ trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam tạo môi trường lành mạnh để trí thức trẻ Liên hiệp Hội Việt Nam phát huy năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, tinh thần tiên phong, xung kích của thanh niên đi đầu trong phát triển cộng đồng, phát triển xã hội.

Ÿ Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách

Lên hiệp Hội Việt Nam cần tăng cường tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về trí thức và trí thức trẻ, tăng cường tuyên truyền về quyền, nghĩa vụ trí thức và trí thức trẻ:

– Có cơ chế để đội ngũ trí thức dễ dàng tiếp cận thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chính sách trí thức; từ đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong truyền bá những tri thức tiến bộ cho nhân dân, áp dụng có hiệu quả vào sản xuất và đời sống xã hội, góp phần quan trọng nâng cao dân trí, từng bước xây dựng đất nước ngày một phát triển.

– Tạo mọi cơ chế và điều kiện để trí thức trẻ nhận thức rõ quyền, trách nhiệm phát huy năng lực, trình độ chuyên môn của mình.

– Liên hiệp Hội Việt Nam cần bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức trẻ trong hệ thống tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được tôn vinh; tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ trên mọi lĩnh vực; tham mưu hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức trẻ khi chuyển giao phát minh, sáng chế, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến đối với Nhà nước và xã hội; tham mưu xây dựng các khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học – sản xuất, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ KH&CN (2021), Đề cương Đề án Chiến lược quốc gia Phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021- 2030
  2. Cao Thị Phương (2020), Trí thức trẻ Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 01/2020.
  3. Đỗ Thị Vân An (2022), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Mặt Trận, http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/xay-dung-doi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-46920.html?gidzl=1HQT4Ih-8bK93fqHAkWXLmG7d18yxo04I0cT46xcSLD92Pb7RUPs31e8pnXkudTVJ0_E7JOMtevo8laYK0
  4. Nguyễn Hiệu (2018), Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời đại hiện nay, https://tcnn.vn/news/detail/40902/Xay_dung_doi_ngu_tri_thuc_trong_thoi_dai_hien_nayall.html; truy cập ngày 19/7/2022.
  5. Nguyễn Thị Bảo (2016), Nữ trí thức và bình đẳng giới ở Việt Nam, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/1430-nu-tri-thuc-va-binh-dang-gioi-o-viet-nam.html; truy cập ngày 19/7/2022
  6. Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam trong kỷ nguyên số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 3/2021
  7. Nguyễn Văn Tuân, Trần Mạnh Thắng (2021), Tạo động lực cho đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Dự báo
  8. Phạm Ngọc Linh, Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức – Mười năm nhìn lại, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/40865/Xay_dung_va_phat_trien_doi_ngu_tri_thuc_Muoi_nam_nhin_laiall.html
  9. Tạp chí Điện tử Quân khu Một (2021), Trí thức Việt Nam trong sự phát triển đất nướ, http://m.baoquankhu1.vn/tin-tuc/chinh-tri/tri-thuc-viet-nam-trong-su-nghiep-phat-trien-dat-nuoc-255048-83.html; truy cập ngày 19/7/2022
  10. Tống Mạnh Hùng (2015), Nghiên cứu tài năng trẻ Việt Nam thời gian qua và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Xã hội học số 4(132)   

                                                Tài liệu Trích dẫn

[1]Đội ngũ trí thức Việt Nam được giới nghiên cứu trong nước cơ bản thống nhất và phân loại thành các nhóm: Nhóm 1 (nhóm trí thức viên chức): gồm các trí thức hoạt động trong các tổ chức sự nghiệp ở các lĩnh vực KH&CN, giáo dục và đào tạo, y tế, văn học nghệ thuật và báo chí. Nhóm 2 (nhóm trí thức cán bộ, công chức): gồm các trí thức đang làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị – xã hội, kinh tế-xã hội. Nhóm 3 (nhóm trí thức trong lực lượng vũ trang): Là người làm việc trong lực lượng vũ trang. Nhóm 4 (nhóm trí thức trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân) gồm: các trí thức tham gia quản lý, làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhóm 5 (nhóm trí thức trong hoạt động hội), gồm các trí thức hoạt động trong các tổ chức (hội) xã hội-nghề nghiệp. Nhóm 6, gồm các trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài. Nhóm 7, (nhóm trí thức trẻ): gồm các nhà khoa học trẻ, sinh viên tốt nghiệp đại học, nghiên cứu sinh.

[2]Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương, khóa X

[3]Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia sự thật. Hà Nội 2021. Tập I, Tr 167

[4] Theo PISA, kết quả giáo dục phổ thông nước ta vượt mức trung bình của học sinh các nước khối OECD. Theo Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds, đã có 5 trường đại học nằm trong nhóm 400 trường hàng đầu Châu Á, 2 trường đại học nằm trong nhóm 1.000 trường tốt nhất thế giới.

[5] Các bộ, ngành, địa phương như: Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, tỉnh Nghệ An, tỉnh Quảng Ngãi.

[6]Bộ Quốc phòng mỗi năm có hàng nghìn mô hình học cụ huấn luyện và công trình khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật của thanh niên ở cấp cơ sở được ứng dụng, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao, góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; tăng năng suất lao động, sản xuất kinh doanh,… làm lợi cho đơn vị hàng trăm tỉ đồng.

[7] Bộ Khoa học và Công nghệ, Sách “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2019”, Hà Nội, 2019

[8]Bộ Quốc phòng thực hiện Dự án tăng cường trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại các khu kinh tế quốc phòng giai đoạn 2010-2020 đã tuyển chọn, ký hợp đồng trách nhiệm với 2.648 đội viên trong 02 năm, các trí thức trẻ cùng với cán bộ, chiến sĩ đoàn kinh tế quốc phòng tham gia phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, giải quyết việc làm, góp phần từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, gắn phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở địa bàn các khu kinh tế quốc phòng. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, có 357 đội viên chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và 20% đội viên được tuyển dụng vào làm việc tại các đơn vị quân đội và các cơ quan, tổ chức của nhà nước, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp, còn lại trở về địa phương lập nghiệp, là lực lượng nòng cốt xây dựng và phát triển kinh tế tại quê hương.

Bộ Y tế thực hiện Dự án thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo), kết quả đã có 354 bác sĩ trẻ tốt nghiệp loại khá giỏi đăng ký tham gia dự án, được tuyển sinh và đào tạo bác sĩ chuyên khoa I, có 151 bác sĩ trẻ tốt nghiệp khóa đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I.

[9]Tỉnh ủy Yên Bái đã đưa vào thực hiện Đề án số 11-ĐA/TU ngày 08/8/2018 về “Xây dựng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý đến năm 2030, định hướng đến năm 2035”; tuyển chọn các cán bộ trẻ dưới 35 tuổi, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số từ 35 – 45 tuổi từ các cơ quan trong hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp xã, lực lượng vũ trang, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh; cử các đối tượng này tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý để rèn luyện, đánh giá, quy hoạch, bố trí, sử dụng và bổ nhiệm giữ các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý. Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Chương trình tạo nguồn quy hoạch, cán bộ, lãnh đạo, quản lý trẻ tuổi, giai đoạn 2011 – 2018 có 424/899 người được đề bạt, bổ nhiệm các chức danh trưởng, phó phòng, ban các sở, ngành, quận, huyện, bí thư đảng ủy, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân phường – xã, thị trấn.

[10]Phạm Ngọc Linh, Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức – Mười năm nhìn lại, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/40865/Xay_dung_va_phat_trien_doi_ngu_tri_thuc_Muoi_nam_nhin_laiall.html

[11]Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam trong kỷ nguyên số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 3/2021

[12]Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam trong kỷ nguyên số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 3/2021

[13]Tống Mạnh Hùng (2015), Nghiên cứu tài năng trẻ Việt Nam thời gian qua và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Xã hội học số 4(132)

[14]Phạm Ngọc Linh, Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức – Mười năm nhìn lại, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/40865/Xay_dung_va_phat_trien_doi_ngu_tri_thuc_Muoi_nam_nhin_laiall.html

[15]Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam trong kỷ nguyên số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 3/2021

[16] Đỗ Thị Vân An (2022), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Mặt Trận, http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/xay-dung-doi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-46920.html?gidzl=1HQT4Ih-8bK93fqHAkWXLmG7d18yxo04I0cT46xcSLD92Pb7RUPs31e8pnXkudTVJ0_E7JOMtevo8laYK0

[17]Phạm Ngọc Linh, Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức – Mười năm nhìn lại, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/40865/Xay_dung_va_phat_trien_doi_ngu_tri_thuc_Muoi_nam_nhin_laiall.html

[18] Tống Mạnh Hùng (2015), Nghiên cứu tài năng trẻ Việt Nam thời gian qua và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Xã hội học số 4(132)

[19] Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam trong kỷ nguyên số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 3/2021

[20]Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Công tác phát huy vai trò của trí thức trẻ Việt Nam trong kỷ nguyên số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 3/2021

Đặng Vũ Cảnh Linh, tham luận trình bày tại Hội thảo “Công tác đoàn kết, thu hút, tập hợp đội ngũ trí thức trẻ” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 16/7/2025

Nguồn: https://hanoimoi.vn/tri-thuc-tre-tai-nguyen-chien-luoc-can-khai-thac-dung-cach-709225.html

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan