CHUYỂN ĐỔI DÂN SỐ, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN VIỆT NAM

Thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với rất nhiều lợi thế của Việt Nam hiện nay dự kiến sẽ kéo dài đến năm 2039, tuy nhiên thanh niên Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến giáo dục, việc làm và phát triển kỹ năng. Bài viết này tập trung phân tích quá trình chuyển đổi dân số của Việt Nam, đánh giá các tác động đến thanh niên, các tiềm năng lợi tức dân số và đề xuất khung chính sách đa ngành nhằm tối đa hóa lợi thế dân số, đồng thời chuẩn bị cho quá trình già hóa dân số trong tương lai. Các phân tích này có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách thanh niên trong chuyển đổi cơ cấu dân số và phát triển kinh tế – xã hội bền vững của Việt Nam.

  1. Mở đầu

Quá trình chuyển đổi dân số là một hiện tượng quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, đặc trưng bởi sự chuyển dịch từ mô hình sinh – tử cao sang mô hình sinh – tử thấp. Việt Nam đang trải qua những thay đổi nhân khẩu học đáng kể trong những thập kỷ gần đây, từ một quốc gia có tỷ lệ sinh cao chuyển sang giai đoạn tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ tăng. Năm 2023, dân số Việt Nam đã vượt mốc 100 triệu người, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đông dân thứ 16 trên thế giới[1]. Sự chuyển đổi này vừa tạo ra những cơ hội phát triển vô cùng quan trọng, vừa đặt ra những thách thức đáng kể, đặc biệt đối với nhóm dân số thanh niên.

Bài viết này tập trung phân tích tình hình chuyển đổi dân số tại Việt Nam, những tác động toàn diện của nó đến thanh niên và đề xuất các giải pháp chính sách đa chiều để tận dụng tối đa “cơ cấu dân số vàng”, tạo điều kiện thuận lợi quá trình quản lý và khai thác hiệu quả nguồn lực con người phục vụ phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam trong bối cảnh biến đổi dân số nhanh chóng.

  1. Tổng quan về chuyển đổi dân số tại Việt Nam

2.1. Quá trình chuyển đổi dân số

Quá trình phát triển dân số của Việt Nam gắn liền với mục tiêu và các hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội qua các thời kỳ. Mục tiêu của ngành dân số trước khi bước vào thế kỷ XXI là giảm sinh và dần tiến tới ổn định quy mô dân số. Trải qua 65 năm kể từ ngày Chính sách Dân số – Kế hoạch hoá gia đình được triển khai, công tác dân số ở Việt Nam có những chuyển biến rõ rệt với những thành tựu quan trọng, tỷ lệ tăng dân số Việt Nam giảm từ 3,9% (năm 1960) xuống 0,99% (trung bình năm 2019-2024)[2]. Với tỷ suất sinh giảm đều qua các năm, từ 6,39 con/phụ nữ (năm 1960) xuống còn 1,91 con/phụ nữ (năm 2024)[3], tỷ lệ này dưới mức sinh thay thế (2,1 con).

Theo số liệu của Cục Thống kê, dân số Việt Nam ước đạt 102 triệu người vào năm 2025, trong đó dân số thành thị chiếm 38,2%, dân số nông thôn đạt 61,8%[4]. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã tạo ra sự mất cân bằng đáng kể về dân số giữa khu vực thành thị và nông thôn. Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận mật độ dân số 4.544 người/km² vào năm 2024, cao gấp 1,7 lần so với Thành phố Hà Nội, và cao gấp 15% mật độ trung bình của Việt Nam[5]. Cơ cấu dân số đang thay đổi với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-64) cao hơn (67,4%) so với tỷ lệ dân số phụ thuộc (dưới 15 tuổi (23,35) và trên 65 tuổi (9,3%). Đây chính là điều kiện tạo nên “cơ cấu dân số vàng” – một giai đoạn thuận lợi cho phát triển kinh tế.

2.2. Cơ cấu dân số vàng và lợi tức dân số

Việt Nam bắt đầu thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến sẽ kéo dài đến năm 2039[6]. Trong giai đoạn này, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao gấp đôi so với dân số phụ thuộc, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư. Lợi tức dân số được tạo ra khi có sự chuyển dịch trong cơ cấu tuổi dân số, khi tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn hơn đáng kể so với tỷ lệ người phụ thuộc. Điều này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh như: tăng nguồn cung lao động, tăng tiết kiệm, tăng đầu tư vào vốn con người và tăng năng suất lao động.

Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu Thanh niên về tình hình thanh niên năm 2024, cả nước có 53 triệu lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên (tăng 575,4 nghìn người so với năm trước), với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%. Trong đó, thanh niên (độ tuổi từ 16 – 30 tuổi) là 20.041.000 người (năm 2024), chiếm 37,8% lực lượng lao động của cả nước, chiếm 19,8% dân số cả nước[7]. Đây là nguồn lực quan trọng có thể tạo ra lợi tức dân số đáng kể nếu được đầu tư đúng mức về giáo dục, y tế và việc làm.

Nghiên cứu về Tài khoản Chuyển nhượng Quốc gia (National Transfer Accounts) của Việt Nam cho thấy quốc gia đã chuyển từ lợi tức dân số thứ nhất, dựa chủ yếu vào số lượng lực lượng lao động, sang lợi tức dân số thứ hai đòi hỏi các can thiệp tích cực hơn về chính sách kinh tế, y tế và giáo dục. Việc tăng năng suất lao động sẽ dẫn đến tăng tỷ lệ hỗ trợ kinh tế, điều này có thể giúp Việt Nam đạt được lợi tức dân số thứ hai vào khoảng năm 2040[8].

Tuy nhiên, cửa sổ cơ hội này đang dần đóng lại do tỷ lệ sinh giảm và dân số già hóa nhanh chóng. Tuổi trung bình của người Việt Nam năm 2024 là 74,7 tuổi; trong đó, tuổi thọ của nam giới là 72,3 tuổi, của nữ giới là 77,3 tuổi. So với năm 2019, tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh của Việt Nam đã tăng lên 1,1 năm[9].

Tỷ lệ người trên 60 tuổi của Việt Nam dự kiến sẽ tăng đáng kể trong những thập kỷ tới. Việt Nam được dự báo sẽ chuyển từ xã hội “già hoá” sang xã hội “già” vào năm 2036. Đến năm 2038, nhóm dân số 60 tuổi trở lên ở Việt Nam chiếm 20% dân số; đến năm 2050, Việt Nam trở thành xã hội “siêu già” với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 25% dân số[10]. Với những con số này, Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có tốc độ già hoá dân số nhanh nhất trên thế giới. Điều này đặt ra nhiều thách thức cho việc tận dụng cơ hội dân số hiện tại và chuẩn bị cho tương lai.

  1. Cơ hội đối với thanh niên

3.1. Lực lượng lao động dồi dào và năng động

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam năm 2024 là 53 triệu người, tăng 575,4 nghìn người so với năm trước đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động với 68,9%. Thanh niên (độ tuổi từ 16-30 tuổi) với lợi thế tuổi trẻ, sức khoẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo và đi đầu trong cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đã và đang góp phần quan trọng trong lực lượng lao động dồi dào của Việt Nam với 20.041.000 người (năm 2024), chiếm 37,8% lực lượng lao động của cả nước, chiếm 19,8% dân số cả nước[11].

Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực dồi dào đặc biệt lao động trẻ và chi phí lao động tương đối thấp, lại được đào tạo bài bản, có chuyên môn cao. Chính sự dồi dào về nguồn nhân lực giá rẻ đã thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành thâm dụng lao động, tạo nhiều việc làm cho thanh niên.

Cơ cấu dân số hiện nay cũng tạo ra thị trường nội địa quy mô lớn, khả năng thu hút nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự sẵn có của lực lượng lao động khỏe mạnh, được đào tạo tốt và có kỹ năng, tư duy đổi mới sáng tạo, và năng động mạnh mẽ. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có lực lượng lao động trẻ nhất trong khu vực Đông Nam Á, tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng trong bối cảnh nhiều quốc gia láng giềng đang bước vào giai đoạn già hóa dân số.

3.2. Tăng trưởng kinh tế ổn định và chuyển đổi cơ cấu

Nền kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định trong những năm qua mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường kinh tế toàn cầu. Năm 2024, GDP đã tăng 7,1% và dự kiến sẽ giảm nhẹ xuống 5,8% vào năm 2025 trước khi phục hồi lên 6,1% vào năm 2026 do sự không chắc chắn gia tăng về chính sách thương mại[12]. Sự tăng trưởng kinh tế ổn định này đã giúp tỷ lệ nghèo giảm mạnh, xuống còn dưới 4% vào năm 2023 theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới (3,65 USD/ngày theo sức mua tương đương năm 2017).

Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra nhiều cơ hội nghề nghiệp mới cho thanh niên. Các thành phố lớn và khu công nghiệp đã trở thành động lực tăng trưởng và tạo việc làm cho thanh niên di cư từ nông thôn. Theo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội, trong nửa đầu năm 2024 đã tạo việc làm cho 124.920 lao động, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2023[13]. Sự phát triển kinh tế này đã thúc đẩy tầng lớp trung lưu phát triển nhanh chóng, với tốc độ tăng trưởng hàng năm cao nhất trong ASEAN [14].

3.3. Chuyển đổi số và công nghệ mới

Trong bối cảnh cơ cấu dân số vàng hiện tại, thanh niên Việt Nam đang đứng trước một làn sóng cơ hội nghề nghiệp hoàn toàn mới, được thúc đẩy bởi cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và quá trình chuyển đổi số toàn cầu. Kinh tế số đã trở thành hiện thực sống động, tạo ra những ngành nghề và mô hình kinh doanh chưa từng có trong lịch sử.

Quá trình chuyển đổi mạnh mẽ đã tạo ra nhu cầu lớn về lao động có kỹ năng trong lĩnh vực công nghệ, năng lượng tái tạo và logistics. Thanh niên có lợi thế trong việc tiếp cận và thích ứng với công nghệ mới. Các nhóm nghề được tìm kiếm nhiều nhất vào năm 2025 sẽ là kỹ thuật viên công nghệ, đại diện bán hàng và công nhân lao động, được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng kinh doanh mạnh mẽ và quá trình chuyển đổi số ở các trung tâm công nghiệp chính của đất nước[15].

Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm công nghệ thông tin trong khu vực, với nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ và công nghệ tài chính (fintech). Điều này tạo cơ hội cho thanh niên có trình độ công nghệ cao tham gia vào nền kinh tế số đang phát triển. Các ngành công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, phân tích dữ liệu lớn đang mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp mới cho thanh niên Việt Nam.

3.4. Cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo

Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo năm 2024 của Việt Nam ước đạt 69% trong đó tỷ lệ lao động đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ là 28,3%, tăng 1,1% so với năm trước đó[16]. Tỷ lệ lao động có bằng đại học hoặc cao hơn đã tăng từ 1,8% lên 3,0% từ năm 1989 đến năm 1999[17] và xu hướng này tiếp tục gia tăng trong những năm gần đây. Năm 2020 tỷ lệ lao động có bằng đại học trở lên của Việt Nam là 11,1%, điều này cho thấy nỗ lực cải thiện chất lượng giáo dục, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển kiến thức, kỹ năng, đồng thời, phản ánh những nỗ lực của chính phủ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.

Bên cạnh đó, với các chương trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho thanh niên Việt Nam. Những sáng kiến này không chỉ đơn thuần là các chương trình đào tạo mà đại diện cho một cuộc cách mạng thực sự trong cách tiếp cận phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nhấn mạnh vào việc thu hẹp khoảng cách số và tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các nhóm xã hội.

  1. Một số thách thức đối với thanh niên

4.1. Tỷ lệ thất nghiệp cao và chất lượng việc làm thấp

Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp chung của Việt Nam năm 2024 khá thấp chỉ có 2,24% (trong đó khu vực thành thị cao hơn với 2,53% và nông thôn là 2,05%)[18], một con số được đánh giá khá tích cực so với nhiều quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) năm 2024 là 7,83%, với tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 9,35%, giảm 0,45 điểm %; khu vực nông thôn là 6,97%, tăng 0,61 điểm %[19]. Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên Việt Nam cao gấp ba lần so với mức trung bình của quốc gia, điều đáng lo ngại hơn là xướng tăng 0,3 điểm % so với năm trước cho thấy vấn đề này đang trở nên nghiêm trọng và đáng quan tâm.

Khu vực thành thị – nơi có nhiều cơ hội việc làm và phát triển kinh tế năng động nhất thì tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên vẫn cao, điều đó thể hiện yêu cầu thực tế của thị trường lao động đô thị, nơi các công việc ngày càng đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và kỹ năng đa dạng. Trong khi đó chuyển đổi cơ cấu kinh tế đang diễn ra tại nông thôn, nơi các hoạt động nông nghiệp truyền thống đang dần được cơ giới hóa và hiện đại hóa, dẫn đến giảm nhu cầu lao động thủ công. Việc thiếu các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ phát triển khiến thanh niên nông thôn không có nhiều lựa chọn nghề nghiệp thay thế, buộc họ phải di cư ra thành phố hoặc chấp nhận tình trạng thất nghiệp tại chỗ.

Bên cạnh đó, hiện nay hiện tượng thất nghiệp “tạm thời” cũng đang trở thành xu hướng khá phổ biến trong thanh niên khi nhiều thanh niên không hài lòng với công việc, môi trường làm việc, hoặc những áp lực công việc đã xin nghỉ việc, chuyển việc hoặc ra nhập thị trường lao động tự do. Nghỉ việc tạm thời luôn là vấn đề đau đầu cả từ phía nhà tuyển dụng, sử dụng lao động lẫn người lao động, vì xét về mặt kinh tế và phát triển con người nó không đem lại sự ổn định và gia tăng giá trị lao động.

Chất lượng việc làm thấp cũng là một vấn đề đáng quan tâm bởi nó phản ánh sự lãng phí tiềm năng của nguồn nhân lực trẻ trong giai đoạn dân số vàng quý giá này. Nhiều thanh niên phải làm việc trong khu vực phi chính thức với mức lương thấp, điều kiện làm việc kém, không có bảo hiểm xã hội và không ổn định. Với các công việc như tài xế xe ôm công nghệ, giao hàng, và các dịch vụ trực tuyến khác, mặc dù cung cấp thu nhập ngắn hạn cho nhiều thanh niên nhưng lại thiếu cơ hội phát triển kỹ năng và thăng tiến nghề nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều thanh niên bị “mắc kẹt” trong những công việc có thu nhập thấp và không có triển vọng phát triển lâu dài.

Hậu quả của tình trạng này không chỉ dừng lại ở cá nhân mỗi thanh niên mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ tiềm năng phát triển kinh tế quốc gia trong giai đoạn dân số vàng. Khi một tỷ lệ đáng kể thanh niên không được khai thác hết tiềm năng, không chỉ có nghĩa là đất nước đang lãng phí nguồn nhân lực quý giá mà còn có thể dẫn đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng như gia tăng bất bình đẳng, giảm động lực làm việc và học tập, và thậm chí là các vấn đề xã hội khác.

4.2. Khoảng cách kỹ năng và chất lượng đào tạo

Theo Cục Thống kê năm 2024 Việt Nam chỉ có 28,3 % lao động được đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp, nghĩa là còn 71,7% lao động Việt Nam chưa qua đào tạo bài bản và thiếu chứng chỉ nghề nghiệp. Đây là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững của thị trường lao động và khả năng cạnh tranh của thanh niên trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Khoảng cách giữa nội dung đào tạo và nhu cầu thực tế của thị trường lao động đã tạo ra tình trạng “mất cân đối kỹ năng” – khi sinh viên tốt nghiệp không có kỹ năng phù hợp với yêu cầu của nhà tuyển dụng.

Hệ thống giáo dục cũng chưa thích ứng kịp với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ và thị trường lao động. Các kỹ năng số, kỹ năng mềm, tư duy phản biện, khả năng giải quyết vấn đề phức tạp và làm việc nhóm, những kỹ năng thiết yếu trong nền kinh tế 4.0, chưa được chú trọng đúng mức trong chương trình đào tạo. Điều này làm hạn chế khả năng cạnh tranh của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số.

4.3. Bất bình đẳng về thu nhập và cơ hội

Có sự chênh lệch đáng kể về thu nhập của lao động Việt Nam giữa nam và nữ, cũng như giữa khu vực thành thị và nông thôn. Năm 2024, thu nhập bình quân của lao động là 7,7 triệu đồng/tháng, tăng 8,6%, tương ứng tăng 610 nghìn đồng so với năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam là 8,7 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,5 triệu đồng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 9,3 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 6,7 triệu đồng/tháng[20]. Sự chênh lệch này tạo ra bất bình đẳng về cơ hội và ảnh hưởng đến khả năng phát triển toàn diện của thanh niên.

Bất bình đẳng còn thể hiện ở khả năng tiếp cận giáo dục chất lượng cao, dịch vụ y tế và cơ hội việc làm giữa các nhóm xã hội khác nhau. Điều này làm trầm trọng thêm sự phân tầng xã hội và làm hạn chế khả năng phát huy tối đa tiềm năng của nguồn nhân lực trẻ.

4.4. Khả năng thích ứng chuyển đổi số và khoảng cách số

Khả năng thích ứng và tích hợp những thay đổi từ cuộc cách mạng số vào đời sống kinh tế-xã hội lại trở thành thách thức lớn nhất mà đất nước đang phải đối mặt. Vấn đề chuyển đổi số không chỉ đòi hỏi việc áp dụng công nghệ mà còn cần có sự thay đổi toàn diện trong tư duy, văn hóa làm việc, cấu trúc tổ chức và cách thức vận hành của toàn bộ xã hội, trong khi phần lớn người dân Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng hoặc tích cực tham gia vào quá trình này.

Khoảng cách số ngay trong chính các nhóm thanh niên giữa các vùng miền, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, tạo ra một thách thức đa chiều cho việc tận dụng lợi ích từ cơ cấu dân số vàng. Sự tồn tại của khoảng cách số này có nghĩa là lợi ích từ chuyển đổi số không được phân phối đều, dẫn đến việc chỉ có một bộ phận nhỏ dân số có thể tận dụng được những cơ hội mới, trong khi phần lớn còn lại, đặc biệt là ở nông thôn, tiếp tục bị gắn liền với các hoạt động kinh tế truyền thống có năng suất thấp. Điều này không chỉ làm tăng bất bình đẳng xã hội mà còn hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế tổng thể, bởi vì một phần đáng kể của nguồn nhân lực trong giai đoạn dân số vàng không thể đóng góp hiệu quả vào sự phát triển của nền kinh tế số.

4.5. Thách thức từ già hóa dân số: áp lực kép cho thế hệ dân số vàng

Việt Nam đang là một trong những quốc gia già hóa nhanh nhất trong khu vực. Quá trình chuyển đổi từ “già hóa dân số” sang “dân số già” dự kiến sẽ diễn ra chỉ trong vòng 20 năm, nhanh hơn nhiều so với các quốc gia khác. Điều này đặt ra thách thức về hệ thống an sinh xã hội và việc làm cho thanh niên trong tương lai.

Tỷ lệ phụ thuộc người cao tuổi (trên 60 tuổi) dự báo đến năm 2038, nhóm dân số 60 tuổi trở lên ở Việt Nam chiếm 20% dân số; đến năm 2050, Việt Nam trở thành xã hội siêu già với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 25% dân số[21]. Xu hướng này sẽ tạo áp lực ngày càng lớn lên hệ thống an sinh xã hội và y tế, đồng thời đòi hỏi lực lượng lao động trẻ phải có năng suất cao hơn để duy trì tăng trưởng kinh tế.

Thanh niên hiện tại sẽ phải đối mặt với gánh nặng ngày càng tăng trong việc đồng thời vừa trở thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho một tương lai khi chính họ sẽ phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc một số lượng lớn người cao tuổi trong bối cảnh nguồn lực hạn chế và hệ thống an sinh xã hội chưa hoàn thiện.

Gánh nặng tài chính mà thế hệ thanh niên hiện tại sẽ phải gánh vác trong tương lai không chỉ dừng lại ở việc đóng góp vào hệ thống hưu trí và bảo hiểm y tế cho thế hệ đi trước, họ đồng thời cũng phải tự chuẩn bị tài chính cho tuổi già của chính mình. Thách thức này đòi hỏi một sự thay đổi cơ bản trong nhận thức và hành vi của thế hệ thanh niên về tiết kiệm, đầu tư và chuẩn bị tài chính cho tương lai.

  1. Kết luận và đề xuất giải pháp

Để tận dụng tối đa lợi tức dân số, đất nước cần đầu tư mạnh mẽ vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là thanh niên. Các chính sách cần tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tạo việc làm chất lượng cao, cải thiện dịch vụ sức khỏe sinh sản, thúc đẩy bình đẳng giới và chuẩn bị cho quá trình già hóa dân số.

Một khung chính sách toàn diện cần bao gồm các can thiệp ở nhiều cấp độ và lĩnh vực, với sự phối hợp giữa các bộ ngành, chính quyền địa phương, khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Chính sách dân số cần được lồng ghép vào Chiến lược và Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội của Việt Nam và các yếu tố nhân khẩu học cần được cân nhắc trong mọi quyết định chính sách. Bài viết xin được đề xuất một số giải pháp cụ thể sau:

Tập trung đầu tư cho giáo dục và phát triển kỹ năng: Tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề, đặc biệt trong các lĩnh vực STEM, công nghệ số và kỹ năng mềm. Cải cách chương trình giáo dục theo hướng phát triển tư duy phản biện, khả năng giải quyết vấn đề và học tập suốt đời. Tăng cường Mô hình đào tạo kép (dual training) kết hợp học tập tại trường và thực hành tại doanh nghiệp cần được nhân rộng để tăng cường tính thực tiễn của đào tạo nghề. Chính phủ và doanh nghiệp cần đầu tư vào việc nâng cao kỹ năng (upskilling) và đào tạo lại (reskilling) lực lượng lao động hiện tại để thích ứng với những thay đổi trong thị trường lao động do tự động hóa và chuyển đổi số. Cần chú trọng nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động hiện tại để thích ứng với sự thay đổi công nghệ.

Hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo: Xây dựng chiến lược quốc gia về việc làm thanh niên, chú trọng các ngành có tiềm năng tăng trưởng cao như công nghệ, năng lượng tái tạo và logistics. Thúc đẩy khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo thông qua các chương trình hỗ trợ, tiếp cận vốn và đào tạo doanh nhân trẻ. Phát triển các trung tâm kinh tế vùng và cụm liên kết ngành để tạo việc làm cho thanh niên ở nhiều khu vực khác nhau. Đầu tư vào kinh tế số, công nghiệp sạch và kinh tế xanh để tạo việc làm chất lượng cao và bền vững.

Các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được đẩy mạnh bao gồm việc cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện tiếp cận vốn, cung cấp dịch vụ tư vấn và đào tạo cho doanh nhân trẻ. Tăng cường sự hợp tác giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ.

Thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho nữ thanh niên: Thực hiện các chính sách nhằm giảm bất bình đẳng giới trong giáo dục và việc làm, thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa nam và nữ. Cải thiện chính sách hỗ trợ gia đình và thúc đẩy cân bằng công việc-cuộc sống, như nghỉ thai sản/phụ sản có lương và dịch vụ chăm sóc trẻ em. Tăng cường sự tham gia của nữ thanh niên trong các vị trí lãnh đạo và quá trình ra quyết định.

Chuẩn bị cho già hóa dân số: Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bền vững, bao gồm cải cách hệ thống hưu trí và mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm xã hội. Phát triển hệ thống chăm sóc người cao tuổi toàn diện và thúc đẩy già hóa tích cực. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư dài hạn thông qua phát triển thị trường tài chính và nâng cao kiến thức tài chính.

Tăng cường sự tham gia của thanh niên: Thiết lập các cơ chế tham vấn thanh niên trong quá trình hoạch định, thực hiện và giám sát chính sách. Tạo điều kiện cho thanh niên, đặc biệt là từ các nhóm thiệt thòi, tham gia vào các cơ quan ra quyết định. Tăng cường nghiên cứu và thu thập dữ liệu về thanh niên để hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.

Thành công của Việt Nam trong việc tận dụng lợi tức dân số phụ thuộc vào khả năng đầu tư vào thanh niên, tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát huy tiềm năng và đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Tài liệu trích dẫn

[1]. https://www.worldometers.info/world-population/vietnam-population/

[2], 3, 4, 9. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-ket-qua-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-giua-ky-nam-2024/

  1. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/12/Dieu-tra-Dan-so-giua-ky-2024-31.12-1.pdf
  2. https://vietnam.unfpa.org/vi/topics

7, 11. Viện Nghiên cứu Thanh niên (2024), Báo cáo Điều tra thường niên về thanh thiếu niên Việt Nam 2024.

  1. https://www.unfpa.org/demographic-dividend#0
  2. https://vietnam.unfpa.org/en/topics/ageing-6
  3. https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview
  4. https://thanhuyhanoi.vn/tin-tuc/kinh-te-van-hoa-xa-hoi/thi-truong-lao-dong-ha-noi-6-thang-dau-nam-2024-no-luc-phuc-hoi-ket-qua-tich-cuc-50006983.html
  5. https://www.statista.com/topics/5991/demographics-in-vietnam/
  6. https://www.vietnam-briefing.com/news/vietnams-2025-job-market-opportunities-and-challenges.html/

16, 18, 20. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2025/01/Thong-cao-bao-chi-lao-dong-Q4-2024.pdf

  1. https://www.prb.org/resources/an-overview-of-population-and-development-in-vietnam
  2. https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2024
  3. 21. https://vietnam.unfpa.org/en/topics/ageing-6

 Đặng Vũ Cảnh Linh, bài đăng trên Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 6/2025

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan