Khái niệm “phản biện xã hội” ngày càng xuất hiện nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật và các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời thuật ngữ này được coi là quan trọng trong các thảo luận của giới khoa học, trí thức các ngành khác nhau, từ khoa học tự nhiên, kỹ thuật cho tới các ngành khoa học xã hội nhân văn. Theo từ gốc Hán Việt, “phản” nghĩa là xét lại, ngược lại, đối nghịch lại còn “biện” mang hàm ý phân tích, biện luận. Thuật ngữ phản biện xưa nay được hiểu là quá trình tìm lý lẽ biện hộ, tranh luận ngược lại trong một quan điểm hay một vấn đề nào đó. Thuật ngữ phản biện gắn liền với quá trình tranh luận để góp phần hình thành tư duy, nhận thức khoa học, tìm kiếm chân lý.
Ở Việt Nam, khái niệm “phản biện” trở thành một quy chuẩn xã hội được công nhận trong lĩnh vực khoa học và giáo dục, nó trở thành chuẩn mực và thể chế hóa thông qua các hội đồng khoa học, hội đồng chuyên môn đánh giá các sản phẩm khoa học. Người phản biện được hiểu là thành viên nắm chức danh quan trọng của một hội đồng khoa học, chuyên môn có vai trò quan trọng trong việc nhận xét, đánh giá, đặc biệt là những tồn tại, hạn chế về một công trình nghiên cứu. Chúng ta không dùng thuật ngữ “người nhận xét” như trong tiếng Anh “reviewer” mà dùng thuật ngữ “người phản biện” để khẳng định vai trò và nhiệm vụ của nhà khoa học khi phải có quan điểm trái ngược, tìm ra những lỗ hổng, thiếu sót của một công trình nghiên cứu, từ đó góp ý cho tác giả chỉnh sửa và nâng cấp công trình của mình đạt chất lượng hơn.
So với thuật ngữ “phản biện” được xác định trong phạm vi rộng lớn của tư duy và thực tiễn thì “phản biện xã hội” là một thuật ngữ có phạm vi hẹp hơn, gắn liền với các hoạt động thể hiện tư duy phản biện của con người đối với mô hình tổ chức xã hội và các vấn đề xã hội được xác định trong phạm vi không gian và thời gian cụ thể. Vì xã hội được hiểu theo khía cạnh vĩ mô ở góc độ chính trị, chính sách và thể chế, quy định các mối quan hệ xã hội thông qua hệ thống các chuẩn mực, giá trị, nên thuật ngữ phản biện xã hội cũng thường được gắn với việc ban hành, thực thi các chính sách trong quản lý xã hội nhiều hơn các lĩnh vực khác.
Ở phương Tây, thuật ngữ phản biện xã hội được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh là “Social criticism” (dịch sát nghĩa tiếng Việt là phê phán, phê bình xã hội). Ở Việt Nam thì vẫn có sự tranh luận xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “phản biện xã hội” khi đối chứng với ngôn ngữ tiếng Anh. Một số nhà khoa học Việt Nam cho rằng cần phải dịch chính xác từ “phản biện xã hội” là “social counter argument” theo cách ghép từ ngữ thông thường. Trong một số trường hợp “phản biện xã hội” không có nghĩa bài xích, phê phán nên cũng có người dịch nhẹ nhàng là “social judgment” (Phán đoán, đánh giá xã hội)
Tuy nhiên để cả 3 thuật ngữ “social criticism”, “social counter argument”, “social judgment” đều không sát nghĩa với từ phản biện xã hội mà Việt Nam đang sử dụng trong các văn bản của nhà nước và trong tư duy phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác. Thuật ngữ “social criticism” có lâu đời ở phương Tây, được sử dụng rộng rãi trong các trường phái lý thuyết về phê phán hiện trạng xã hội. Biểu hiện của chủ nghĩa phê phán còn nằm trong các trào lưu văn học, nghệ thuật mang tính trào phúng khi phản ánh các vấn đề mặt trái của xã hội. Bên cạnh đó “social judgment” lại là một trong những trường phái lý thuyết liên quan đến tâm lý học xã hội nghiên cứu về khả năng phán đoán của con người với các hoàn cảnh cụ thể trong mối quan hệ với các thông điệp truyền thông. Thuật ngữ “social counter argument” là tương đối sát nghĩa song không được sử dụng trong phổ biến trong luận giải của các ngành khoa học ở phương Tây.
Từ sự chưa thống nhất trong cách hiểu và dùng thuật ngữ phản biện xã hội theo ngôn ngữ quốc tế, chúng ta cần phải xác lập căn cứ khoa học cần thiết cho khái niệm này để tránh bị hiểu sai từ nội hàm khái niệm cho tới với mục đích, ý nghĩa sử dụng.
Có hai cách hiểu về phản biện xã hội khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Các hiểu thứ nhất, phản biện xã hội là sử dụng các tri thức khoa học, phản biện các vấn đề xã hội trong đó có các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình, dự án do nhà nước, địa phương đang triển khai thu hút sự quan tâm của dư luận. Cách hiểu thứ hai là sự phản biện mang “tính xã hội” về một vấn đề đang diễn ra trong xã hội được sự quan tâm của dư luận. “Tính xã hội” ở đây được hiểu là tiếng nói đa chiều trong sự phản biện đại diện cho các nhóm và các tầng lớp xã hội.
Nhìn chung cả hai quan điểm đều khẳng định sự phản biện xã hội là xác lập cơ chế biện luận khoa học (thậm chí trái chiều) với những chủ trương, chính sách, chương trình, dự án và các vấn đề xã hội đang diễn ra. Tuy nhiên trong cách hiểu thứ nhất thì vai trò của phản biện xã hội mang tính thẩm định, chỉ ra những lỗ hổng đồng thời đưa ra những giải pháp mang tính xây dựng. Còn trong cách hiểu thứ hai, phản biện mang tính tự do, dân chủ thiên về sự chê bai, phê phán mà trong đó không phải quan điểm nào cũng mang tính chất xây dựng, khách quan.
Để xác định rõ khái niệm phản biện xã hội không gây ra sự nhầm lẫn và những quan điểm trái chiều, thì phải tiếp cận phản biện xã hội trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin trong đó phản biện xã hội là sự phản ánh của nhận thức chân lý xã hội xuất phát từ các lực lượng xã hội tiến bộ. Khi coi phản biện xã hội là một hiện tượng của đời sống xã hội, là hoạt động phản ánh tư duy, quá trình nhận thức của những con người trong xã hội vì vậy phản biện xã hội không thể không tuân theo các quy luật cơ bản của sự phát triển. Xét trong giới hạn của tổ chức xã hội, theo chủ nghĩa Mác, phản biện xã hội có ý nghĩa tích cực, thể hiện rõ nhất sự cân bằng của “sự thống nhất” và “đấu tranh” giữa các mặt đối lập của xã hội, trực tiếp là giữa Nhà nước (chủ thể quản lý) với xã hội (đối tượng quản lý). Phản biện xã hội là sự biện luận để làm rõ đúng – sai của các chủ trương, chính sách nhằm đảm bảo tốt nhất lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phản biện xã hội hướng đến đảm bảo sự tồn tại của chế độ xã hội với “sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập” trong sự tự phát triển của các quy luật vận động xã hội.
Trên thực tế các vấn đề thực tiễn luôn biến đổi nhanh và hệ thống pháp luật hay thể chế xã hội vẫn luôn được nhà nước điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Phản biện xã hội được hiểu là các nhân tố thúc đẩy và tạo ra giá trị tích cực cho sự điều chỉnh ấy. Thực tế ở Việt Nam mỗi lẫn điều chỉnh pháp luật đều mang lại những giá trị tích cực và tiến bộ trong thực tiễn, quá trình điều chỉnh luật luôn xuất phát từ các hoạt động phản biện xã hội.
Khi phản biện xã hội trở thành một hoạt động xã hội, thì phản biện cũng vượt ra ngoài ranh giới của khoa học nó trở thành khái niệm của các tầng lớp nhân dân. Ở Việt Nam, với mệnh đề nhà nước của dân, do dân và vì dân thì hoạt động phản biện xã hội phải được hiểu là hoạt động thông qua chủ thể là nhân dân. Với tư cách là người chủ xã hội, nhân dân có quyền giám sát đối với mọi hoạt động của Nhà nước và phản biện xã hội, chính là công cụ để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với các cơ quan quản lý. Bên cạnh đó với tư cách là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước, nhân dân có quyền bảo vệ những lợi ích, quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình trước những chủ trương, chính sách, đề án của Nhà nước mà họ cảm thấy cần phải có ý kiến phản biện, đóng góp, xây dựng các chủ trương, chính sách, đề án đó tốt lên.
Như vậy, thuật ngữ phản biện xã hội có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng là sự tham gia của các tầng lớp xã hội trong việc đưa ra ý kiến tranh luận (có cơ sở khoa học và bằng chứng) về một vấn đề trong xã hội nào đó, buộc nhà nước phải xem xét và đứng ra giải quyết. Theo nghĩa hẹp, là sự tham gia của các tầng lớp xã hội (trọng tâm là giới khoa học, trí thức) trong việc tranh luận, góp ý cho các chủ trương, chính sách nhà nước, các chương trình, dự án phát triển của trung ương và địa phương.
