Bàn về khái niệm niềm tin (niềm tin trong một thế giới đang biến đổi phần II)

Niềm tin lâu nay vẫn được coi là một trong những lĩnh vực nghiên cứu phức tạp nhất trong tư duy lý thuyết của các khoa học xã hội. Nó là một dạng thức đặc biệt của đời sống tinh thần, biểu hiện thông qua các trạng thái tâm lý, tình cảm và nhận thức con nguời, đồng thời có quan hệ chi phối tới toàn bộ hành vi, hoạt động sống của con người và xã hội.

Đối với hoạt động chính trị, niềm tin gắn với lý tưởng chính trị, cách mạng. Đối với tôn giáo, nó biểu hiện ở đức tin, sự sùng kính và lòng thành. Đối với khoa học, niềm tin gắn liền với tri thức, tinh thần thực chứng và quá trình nhận thức chân lý. Đối với tình yêu, gia đình và những mối quan hệ xã hội khác, niềm tin biểu hiện trong mình những giá trị mang tính đạo đức, nhân văn, đó có thể là sự yêu thương, chân thành, lòng tôn trọng và chung thủy.

Có thể thấy niềm tin luôn hiện diện trên mọi khía cạnh xung quanh cuộc sống và mang ý nghĩa như một giá trị đặc biệt quan trọng làm phong phú đời sống nội tâm, đời sống tinh thần cùng các hoạt động thực tiễn của con người và xã hội loài người. Mặc dù chúng ta có thể khá dễ dàng hiểu và nhận biết về khái niệm niềm tin, những biểu hiện cơ bản của nó trong đời sống tuy nhiên việc phân tích nội hàm khái niệm và cấu trúc của niềm tin trên bình diện khoa học còn là một vấn đề gây khá nhiều tranh luận của các nhà khoa học. Phần viết dưới đây chúng tôi xin gởi mở một số vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn trong việc tiếp cận khái niệm niềm tin và nghiên cứu về niềm tin với tư cách là một giá trị.

Chúng ta khó có thể phủ nhận một thực tế là trong các sách báo, công trình khoa học hiện nay đã hiện diện khá nhiều những cách giải thích khác nhau về niềm tin. Về bản chất, niềm tin là một khái niệm vừa đa nghĩa vừa đa ngành. Tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ cũng như hướng tiếp cận của một chuyên ngành nhất định mà khái niệm niềm tin lại được chuyên ngành đó phân tích theo một góc độ riêng. Mỗi khoa học, triết học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học, nhân học và văn hóa học lại giải thích và phân tích vấn đề niềm tin theo cách thức riêng. Trong trường hợp như vậy việc cố gắng đưa ra cách giải thích chung nhất cho một khái niệm sẽ là gượng ép, khó làm thoả mãn được mọi góc tiếp cận, mọi người quan tâm và thường chỉ gây thêm những cuộc tranh luận.

Minh họa, ảnh internet

Về phương diện này, việc định nghĩa khái niệm một cách tổng quát và giản đơn theo cách của các nhà ngôn ngữ học xem ra lại có thể dễ chấp nhận hơn cả. Cách định nghĩa này có thể không làm thoả mãn nhiều hướng tiếp cận khoa học sâu sắc và chuyên biệt nhưng lại là nền tảng cần thiết để các hướng tiếp cận khoa học đa dạng trên các mức độ nhận thức khoa học khác nhau, có thể gặp gỡ nhau ở những điểm chung nhất.

Theo quan niệm thông thường, trong từ điển tiếng Việt “niềm” lại được định nghĩa là một trạng thái biểu hiện xúc cảm, còn “tin” là cho là đúng sự thật.  Các nhà ngôn ngữ học đã có một định nghĩa khá giản dị về niềm tin như sau: “Niềm tin là trạng thái tình cảm cụ thể của con người, đặt hoàn toàn hy vọng vào người nào hay cái gì đó cho là đúng sự thực, là có thật, nghĩa là rất có thể sẽ như vậy, tới mức có thể dựa vào, trông cậy vào”. (1)

Theo cố tác giả Trần Bạch Đằng niềm tin bao gồm nhiều dạng : tín ngưỡng, các học thuyết,  lý tưởng xã hội,  xác lập cứu cánh,  ý nghĩa  cuộc sống, tạo động lực thúc đẩy, điều chỉnh hành vi cá nhân, phù hợp với xã hội. (2)

Một định nghĩa khác cũng khá bao quát của nhà nghiên cứu Mai Thanh Hải, đó là “ Niềm tin chịu ảnh hưởng của kinh nghiệm, của nhân cách và vai trò cá nhân, nó vai trò căn bản trong đời sống xã hội, có thể có hiệu lực quy định mục đích hành vi cá nhân và tập thể, định hướng cho việc tìm kiếm phương tiện để đạt được mục đích đó”. (3)

 Như vậy các quan điểm thông thường đều cho rằng niềm tin là sự biểu hiện của một trạng thái tình cảm, ý thức khi con người nghĩ về những điều mà họ coi là đúng và nó mang ý nghĩa định hướng cho các hoạt động của chủ thể.  Những định nghĩa trên, dù chưa thật sâu sắc, tuy nhiên ở mức độ khái quát chung là có thể chấp nhận được. Nó đưa ra được một cách hiểu chung nhất, tạo cơ sở cần thiết để phân tích niềm tin dưới các góc độ khoa học khác nhau.

 Triết học, một khoa học tổng hợp về tư duy lý thuyết đã đặt niềm tin trong mối quan hệ của hai phạm trù cơ bản vật chất và ý thức, gắn liền với mối quan hệ nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Các nhà triết học duy tâm và siêu hình trước đây đã cho rằng niềm tin dựa trên cơ sở của nhận thức chủ quan, hoặc dựa trên các thế lực siêu nhiên thần bí. Họ tuyệt đối hoá vai trò của niềm tin đối với đời sống xã hội, phủ nhận sự tồn tại của chân lý khách quan đối với quá trình nhận thức.

Quan điểm của tôn giáo khá đồng nhất với các tư tưởng Duy tâm trong Triết học khi đồng nhất niềm tin với đức tin tôn giáo, niềm tin được biểu hiện trong sự sùng kính, lệ thuộc đối với đức chúa trời, các vị thần thánh,  hệ thống giáo lý, giáo luật và nghi thức tôn giáo. Niềm tin trong tôn giáo cũng đồng nghĩa với sự thủ tiêu quá trình nhận thức của con người, sự tự tin và làm chủ của cá nhân trước những tồn tại và biến đổi xã hội.

Sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc bác bỏ những hoài nghi về niềm tin của thế giới. Cùng với nhận thức về chủ nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen khẳng định niềm tin là trạng thái biểu hiện trong ý thức xã hội, nó không là sự vận động tự thân của ý thức mà là sự sao chép, sự phản ánh khách quan về thế giới trong nhận thức và tình cảm của con người. Niềm tin luôn phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh xã hội và trình độ phát triển của mỗi quốc gia, cộng đồng, dân tộc. Bên cạnh đó, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, niềm tin có vai trò quan trọng trong việc quyết định những hành vi của chủ thể, tác động trở lại với quá trình phát triển xã hội. Chính những quan điểm khoa học và tiến bộ của chủ nghĩa Mác đã là cơ sở lý luận và phương pháp luận vững chắc, chống lại những lý giải siêu hình, phiến diện và mang mầu sắc tôn giáo, duy tâm trong việc xác định yếu tố niềm tin của con người.

Niềm tin có lẽ được nhắc đến khá nhiều trong các quan điểm của tâm lý học và xã hội học. Tâm lý học xem xét niềm tin trong trạng thái biến đổi của cấu trúc và các quy luật tâm sinh lý, là quá trình mà cá nhân tự nhận thức, trải nghiệm, cho tới sự hình thành các cảm xúc, nhân cách, lý tưởng và lối sống.  Những nghiên cứu tâm lý học luôn là chìa khóa để hiểu biết về những biến đổi nội tại và phức tạp trong cấu trúc niềm tin với tư cách là một hoạt động tinh thần không thể thiếu trong đời sống cá nhân và cộng đồng.

Khi nghiên cứu về niềm tin, các nhà Xã hội học đã nhấn mạnh tính xã hội của niềm tin. Niềm tin được hiểu không chỉ đơn thuần là cảm xúc hay ý thức của cá nhân mà phải gắn với mối quan hệ và ý thức cộng đồng, phản ánh điều kiện sống, sinh hoạt, phương thức sản xuất, văn hóa của cộng đồng trong những hoàn cảnh lịch sử , không gian và thời gian nhất định.

Ngay trong những thời kỳ đầu của chuyên ngành Xã hội học,  A. Comte (1798 – 1857) đã nhấn mạnh vai trò của khoa học thực chứng giống như cơ sở của để xây dựng một niềm tin khoa học. Niềm tin không còn là một ý thức chung bất biến mà chịu khả năng chi phối của các mối quan hệ và tương tác xã hội được chứng minh bằng khoa học và hoạt động thực tiễn của con người. Các nhà Xã hội học sau này kế thừa những quan điểm của A. Comte khi tiếp cận với các vấn đề trong thực tiễn xã hội qua hàng chuỗi các nghi ngờ, các giả định và những sự giải thích mang tính phản đề so với quan niệm truyền thống.

Điều đó được minh chứng trong những giải thích của nhà xã hội học Pháp, E. Durkhem (1858-1917) về nạn tự tử, khi ông coi hiện tượng này không chỉ là biểu hiện của tâm lý mà phụ thuộc vào ý thức cộng đồng và mức độ đoàn kết xã hội. Cách giải thích tương tự  của các nhà Xã hội học về các hiện tượng xã hội khác như tội ác, nạn nghèo khổ, bất bình đẳng xã hội, vai trò giới, hôn nhân và gia đình đều mang tính thuyết phục khi nhìn nhận niềm tin khoa học luôn vận hành trong mối quan hệ với cấu trúc và biến đổi xã hội.

Trong những lý thuyết nghiên cứu chuyên sâu về niềm tin, nhà Xã hội học nổi tiếng người Đức, M. Weber ( 1864 -1920 ) đã đặt niềm tin trong khung phân tích về động cơ bên trong của hành động xã hội. Weber phân biệt 4 loại hành động : hành động duy lý công cụ là hành động được thực hiện với sự tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện để đem lại hiệu quả cao nhất; hành động duy lý giá trị được thực hiện bằng sự lựa chọn các niềm tin, giá trị, đôi khi phi lý;  hành động duy cảm do những trạng thái xúc cảm bột phát gây ra và hành động duy lý truyền thống dựa trên việc tuân thủ các thói quen, tập tục truyền thống. Như vậy niềm tin đều được biểu hiện thông qua 4 loại hành động này, giống như một “điển hình lý tưởng” (ideal type) trong sự so sánh với thực tiễn, theo cách gọi Weber, đồng đó cũng là nguyên nhân sâu sa của hành động, nó gắn với quá trình tự nhận thức và cá nhân tự điều chỉnh.

Khắc phục những quan điểm có khuynh hướng duy tâm khi đề cao ý thức chủ quan của Weber, thuyết Cơ cấu chức năng mà đại diện là T. Pason (1902-1979) sau này, đã lồng ghép khoa học hành động vào các vấn đề của cơ cấu xã hội. Tư tưởng cơ bản của Parson là khi  giải mã một hành động xã hội, phải nhìn nhận nó từ phương diện của một cấu trúc toàn vẹn bao gồm hệ thống các tương tác biểu trưng và giá trị. Nếu niềm tin được đặt vào các chuẩn mực giá trị, có vai trò định hướng hay kiểm soát hành động của chủ thể, thì đồng thời nó chịu sự chi phối của các quy luật chức năng cơ cấu và các mối quan hệ trong thực tế.

Các lý thuyết Hành vi và tương tác luôn đặt niềm tin trong các mối quan hệ chủ thể và các khuôn mẫu. Cơ sở của các hành vi và hoạt động của chủ thể bắt đầu từ những khuôn mẫu và biểu tượng xã hội mà trong đó là sự thể hiện gián tiếp của niềm tin và kỳ vọng chung của cộng đồng. Như vậy theo quan điểm của các lý thuyết này không phải chỉ có niềm tin của cá nhân, mà trên thực tế niềm tin của cộng đồng lại có vai trò quyết định tới hành vi cá nhân.

Trong các sách giáo khoa giảng dạy về xã hội học hiện đại, khái niệm niềm tin được xếp bên cạnh khái niệm giá trị và được coi là một thành tố cơ bản để tạo nên văn hoá cá nhân và cộng đồng. Một nhà xã hội học nổi tiếng Macionis. J, trong cuốn sách được tái bản nhiều lần  “Xã hội học” (Sociology) có một quan niệm khá đầy đủ về niềm tin trong mối quan hệ với giá trị. Ông viết: “Giá trị là những nguyên lý rộng lớn nó được biểu hiện trong những luận điểm cụ thể khi con người nắm bắt cái đúng. Trong khi giá trị là tiêu chuẩn cơ bản của những điều tốt đẹp thì ở phía bên kia, niềm tin là các vấn đề cụ thể nơi cá nhân suy nghĩ, tự đánh giá về những điều đúng sai. Giá trị văn hoá và niềm tin văn hoá không chỉ là những sắc mầu khi chúng ta nhận thức về môi trường xung quanh mà còn là những hạt nhân tiêu chuẩn nằm trong bản chất của con người” (4).

Thực tế cho thấy quan điểm của các nhà xã hội học hiện đại nhìn nhận niềm tin và giá trị là hai mặt có quan hệ biện chứng thống nhất trong ý thức của con người. Nhìn chung, niềm tin là một khái niệm khá quan trọng, được vận dụng nhiều trong nghiên cứu của các ngành khoa học, lý giải về nhận thức, quá trình hình thành nhân cách, lý tưởng và quan niệm sống, song bản thân nó lại ít được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và có hệ thống. Để làm rõ hơn về khái niệm niềm tin, chúng tôi sẽ dành những phần viết dưới đây để phân tích sâu hơn về các chiều  biểu hiện của cấu trúc niềm tin.

TRÍCH DẪN

(1) Uỷ Ban Khoa học xã hội, Viện Ngôn ngữ học (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội

 (2) Trần Bạch Đằng (2001) Vấn đề tôn giáo, tư tưởng và chính sách xã hội, Trong cuốn Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ, NXB KHXH, trg11.

(3) Mai Thanh Hải (2002) Từ điển tôn giáo, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.

(4) Macionis. J (1997) “ Sociology”, Prentice Hall, Upper Saddle River, New Jersey,  p71

Hàn Vũ Linh, in trong cuốn Niềm tin trong một thế giới đang biến đổi – một phân tích xã hội học về giá trị nhận thức của học sinh, sinh viên hiện nay, Nxb Khoa học và xã hội 2008

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan