NGƯỜI CAO TUỔI GIỮ LỬA – TRUYỀN NGHỀ

Tuổi già là khoảnh khắc con người ta chậm lại để lắng nghe chính mình và cả tiếng vọng của quá khứ. Tròn thế giới nội tâm, xen lẫn hành động chậm rãi ấy, có người sợ tuổi già vì cảm giác thời gian co lại như một chiếc lá mùa thu, nhưng cũng có những người, càng bước tới xế chiều, càng như ngọn đèn được châm thêm dầu, rực lên những tia sáng không phải để chiếu rọi cho riêng họ, mà để soi đường cho lớp người đi sau, bước tiếp. Đó chính là những nghệ nhân cao tuổi, sống thầm lặng trong từng ngõ hẻm, con phố, làng quê, những người không chỉ ngày đêm giữ lửa nghề, mà rộng hơn họ đang nắm giữ những nét văn hóa độc đáo, đầy bản sắc, hội tụ đầy đủ căn tính, hồn cốt dân tộc.

Trong mỗi làng nghề, người cao tuổi không chỉ được gọi là “người làm nghề lâu năm”, mà đôi khi được giới trẻ tôn trọng, tôn xưng là “thầy”, là người “giữ lửa” hay người nắm giữ phần hồn của làng xóm, quê hương. Người cao tuổi là chứng nhân của thời gian của những biến cố lịch sử, những đổi thay xã hội và phát triển không ngừng của cả một cộng đồng xoay quanh những vui buồn trong lao động, nghề nghiệp, đời sống sinh hoạt văn hóa… Tất cả những dữ liệu sinh động nhất đều từng quét qua cuộc đời họ, nhưng có một thứ họ không đánh mất, cũng như không thể mai một với thời gian: đó là những bí quyết nghề nghiệp được đúc rút từ đời này qua đời khác, là niềm tin, sự tự tế khi rằng nghề nghiệp không chỉ là kế sinh nhai, mà còn cách con người luôn rèn luyện, giữ lấy phẩm giá và đạo đức với cộng đồng. Một mũi đục của nghệ nhân mộc, một tiếng gõ phách của người hát xẩm, một vòng quay đất của nghệ nhân gốm, tất cả không chỉ là động tác, kỹ thuật tinh xảo, mà còn là văn hóa, đạo đức, di sản được gửi từ đời này sang đời khác.

Cố nghệ nhân Xẩm Hà Thị Cầu, người nghệ sĩ cuối cùng của một loại hình nghệ thuật từng vang lên trên mọi nẻo đường Bắc Bộ – từng nói rằng: “Hát không phải để người ta khen hay, mà để mình còn nhớ mình là ai”. Câu nói tưởng như giản dị nhưng chứa đựng triết lý sâu xa: mỗi nghề truyền thống đều bắt nguồn từ lao động, văn hóa của một cộng đồng mà không thể lẫn với cộng đồng khác. Khi hình ảnh người nghệ nhân già tiếp tục cất tiếng hát dù mắt đã mờ, lưng đã còng, đó không chỉ là hành động giữ nghề, mà là giữ lấy ký ức của cả một dân tộc và truyền lại cho thế hệ con cháu. Bởi nếu tiếng xẩm không còn vang lên, thì người ta sẽ quên mất một thời ông bà từng kể chuyện đời bằng hơi thở, bằng nước mắt, bằng lòng kiên cường, với  ý chí và bàn tay lao động, cha ông ta đã vượt qua những tháng ngày gian gió nhất khi đối mặt với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, giặc giã hay cả sự nghèo đói.

Ở Bát Tràng, nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh – người dành hơn sáu mươi năm đời mình bên bàn xoay gốm – vẫn đều đặn nhóm lò mỗi sáng. Bà hiểu rằng, một mẻ gốm không chỉ cần kỹ thuật, mà cần cả lửa của lòng người. Nhiều người trẻ tới xem, háo hức chụp ảnh, ngạc nhiên trước men gốm ánh lên như một dòng nước ngầm. Nhưng nghệ nhân già không chỉ muốn họ chụp ảnh. Bà muốn họ nhìn thấy “linh hồn của đất” – nơi chính đất đã cho con người quá nhiều thứ, dẫn dắt con người và truyền qua bàn tay cần mẫn, khéo léo, sáng tạo của con người trở thành một thứ “linh hồn của lao động” đi trên từng nét hoa văn, đi vào từng sản phẩm đặc sắc, độc đáo và tinh xảo nhất.

Với người cao tuổi, lao động và truyền nghề, không tách rời. Lao động để học hỏi kinh nghiệm, nắm giữ tinh hoa nghề, còn truyền nghề là truyền lại cho gia đình, con cáu, người thân, cộng đồng không chỉ truyền cách làm ra sản phẩm, mà còn là truyền cách “sống với nghề”. Người cao tuổi không nói bằng những khẩu hiệu lớn, mà chỉ bằng những lời nhắc nhở con cháu: “Đừng vội”, “dục tất bất đạt”, “Còn thiếu lửa”, “Cần kiên nhẫn, cần sáng tạo”, “Sai rồi, hỏng rồi, con phải làm lại, con thử lại từ đầu xem nào?”… Những lời dạy giản dị ấy là kết tinh của một đời chiêm nghiệm: nghề chỉ sống khi người làm nghề tìm thấy ý nghĩa trong từng động tác; nghề chỉ còn giá trị khi mỗi sản phẩm làm ra không phải chỉ để bán, mà là để gửi phẩm giá của mình vào cuộc đời.

Người cao tuổi truyền nghề cho con cháu: truyền nghề không chỉ là việc “chỉ tay” hay “kèm cặp”, mà là hành trình tiếp nối văn hóa tinh tế giữa người “giữ lửa” và người “nhận lửa”.  Người cao tuổi cầm trong tay ngọn lửa đã cháy qua nhiều thăng trầm lịch sử. Ngọn lửa đó luôn không không tắt, luôn sưởi ấm đời sống con người, cộng đồng và trong sự hạnh phúc nhất, người cao tuổi mong muốn trao lại cho thế hệ sau ngọn đuốc nghề rực lửa ấy.

SỨ MÊNH TRUYỀN VÀ TIẾP LỬA TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI

Nghề hay cao hơn là nghề “gia truyền” trước hết gắn với bí quyết công nghệ, sự đặc biệt trong nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo những công thức, tỉ lệ, cách xử lý vật liệu mà mỗi gia đình xưa đều dấu giấu như vật “gia bảo” quý hơn bạc tiền. Các cụ quan niệm tiền bạc hay sự giầu có dù đến bao nhiêu cũng có thể mất đi, nhưng chính nghề mới là cái làm ra tiền bạc và không thể mất. Đó cũng là tư duy về sự phát triển bền vững trong mỗi gia đình, gia tộc Việt Nam nói chung và những người làm nghề truyền thống nói riêng.

Từ hạt nhân gia đình, nghề mang tính “gia bảo” có thể được phổ biến rộng hơn ở phạm vi làng nghề, rồi thành phố nghề trở thành bảo vật chung, thậm chí cũng trở thành “quốc bảo”. Không phải ngẫu nhiên Hà Nội có “ba mươi sáu phố phường” – mỗi phố, mỗi nghề và sau lưng là câu chuyện truyền nối nhiều đời, trong đó người cao tuổi là kho tư liệu sống giữ chìa khóa bí quyết và đạo nghề. Với nghề truyền thống, người cao tuổi giữ vai trò như gốc rễ: nắm bí quyết, giữ chuẩn mực, định thần sắc cho sản phẩm và quan trọng hơn cả “đạo làm nghề”. Trải qua ngàn năm lịch sử, nghề có khi thăng, khi trầm, sản phẩm có thể thay đổi, mẫu mã có thể đẹp ơn, ứng dụng ngày càng đa dạng, chất lượng ngày càng cao, nhưng “đạo làm nghề” thì dường như vẫn khó thay đổi vì đạo ấy đã trở thành văn hóa.

Tìm hiểu về quá trình truyền nghề, học nghề, có thể thấy trong văn hóa, con đường học nghề của người Việt không đi qua giảng đường mà qua “thân – tâm – tay”: học bằng nhìn – bắt chước – thất bại – làm lại, dưới sự giám sát nghiêm cẩn của bậc thầy là những nghệ nhân đã có thành tựu. Ngày nay người cao tuổi dạy nghề vẫn theo phép xưa của các cụ dạy nghề  theo trình tự ấy: “thực hành – giám sát – đánh giá”, cũng kèm theo nhiều nghi lễ từ nhập đạo đến hành nghề. Điều này lý giải vì sao “nghề gia truyền” không chỉ là kinh nghiệm kỹ thuật, mà là kỷ luật nhân cách: cẩn trọng với vật liệu, tôn trọng thời gian, biết không tự hài lòng với chính mình hay sản phẩm mà luôn phấn đấu đến hoàn thiện.

Ngay nay, chuyện truyền nghề và học nghề khó hơn xưa. Sự chuyển giao giữa các thế hệ do những khác biệt về trình độ phát triển, khoa học, công nghệ, quan niệm, tư duy hay kỹ thuật có thể có những sự tương đồng nhưng cũng có thể có những khoảng cách. Sự tương đồng có thế gặp gỡ như người cao tuổi giữ nghề với tâm thế gìn giữ, nâng niu tinh hoa nghề và truyền lại thế hệ mai sau và người trẻ đến với nghề trong tâm thế khám phá, học hỏi, tìm kiếm cơ hội thành công, khẳng định bản thân. Người cao tuổi cố gắng truyền lại giá trị truyền thống, con người trẻ cố gắng giữ gìn, phát huy và hiện đại hóa những giá trị truyền thống ấy. Những lớp học trong gia đình, trong cộng đồng từ đó sinh ra. Từ trong những căn phòng chật chội, người cao tuổi truyền dạy, dặn dò, thực hành, thị phạm cho trò như lớp học không chính thức mà cũng có thể là những công xưởng hiện đại, người cao tuổi đang là giảng dạy như cố vấn kỹ thuật trong những công xưởng khi những giá trị truyền thống đang được làm mới trên những dây chuyền sản xuất công nghệ hiện đại nhất…

Cũng cần nhìn nhận thẳng thắng, trong xã hội hiện đại không phải gia đình, cộng đồng nào, và người trẻ nào cũng sẵn sàng học nghề, nối nghề. Có người trẻ sẽ chọn đi con đường khác và điều ấy bình thường trong một xã hội hiện đại nhiều lựa chọn và có sự phân công lao động. Cũng vì vậy mà người cao tuổi cần là kiên nhẫn và chọn thời điểm dạy nghề với mong muốn truyền lại giá trị sống “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Thực tế nhiều gia đình có người mười tám đôi mươi chưa muốn học nghề gia truyền, đến ba mươi, bốn mươi, sau khi đi một vòng thế giới, quay về xin “bái sư”, “học nghệ” và học từ chính bố mẹ, ông bà mình – những người nghệ nhân tuổi cao nhưng vẫn là kho báu về kinh nghiệm, trí tuệ và sự minh mẫn cần thiết trong quá trình truyền lửa.

Người cao tuổi ngày nay có xu hướng cởi mở hơn. Họ không còn cố chấp, giữ nghề cho gia đình, gia tộc mà đã mở rộng với nhiều đối tượng. Ở nhiều làng nghề, lớp già không còn dạy như cũ, lớp trẻ cũng không còn học nghề theo kiểu làm theo đúng như cũ. Thầy trò vừa dạy, vừa học, vừa làm, thậm chí quay video, kể chuyện về nghề trên mạng xã hội, xây dựng thương hiệu, thảo luận kinh nghiệm, thiết kế mẫu mã sản phẩm độc đáo, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng xã hội.  Người cao tuổi cũng hiểu nghề truyền thống chỉ có thể phát triển mạnh khi được hiện đại hóa, mang hơi thở và sức sống của xã hội hiện đại.

GIỮ NGHỀ, TRUYỀN NGHỀ LÀ TIẾP BIẾN VĂN HÓA

Nếu nghề chỉ là một phương thức kiếm sống, thì khi đời sống thay đổi, nghề có thể bị thay thế. Nhưng nếu nghề là nơi trú ngụ của bản sắc, của ký ức tập thể, của linh hồn dân tộc  thì mất nghề truyền thống vẫn đồng hành cũng các giá trị kinh tế và văn hóa.

Trong những năm gần đây, thương mại hóa đã thổi vào làng nghề một luồng gió mới. Người trẻ đem sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, tiếp thị bằng những video triệu view. Những điều đó giúp nghề “sống được”, nhưng để nghề “sống đúng”, cần thêm một điều sâu hơn: sự quay về học hỏi giá trị từ người cao tuổi và xây dựng tư duy “chính trực” với di sản ông cha. Ngày hôm nay, lớp trẻ đã bắt đầu quay về không phải vì quá khứ, mà vì tương lai. Những người trẻ thấy trong nghề một cơ hội để khẳng định bản sắc Việt Nam trên bản đồ văn hóa thế giới. Ví như một cây cổ thụ khi người cao tuổi là “cội”, thì người trẻ là “tán”; cội có sâu thì tán mới rộng lan tỏa bóng mát. Và khi hai thế hệ gặp nhau không phải ở chỗ làm nghề theo đúng nguyên bản, mà ở chỗ cùng giữ lấy tinh thần nghề và tìm hướng đi mới, phát triển nghề. Giữ nghề đồng hành bằng phát huy giá trị của xã hội hiện đại. Và người nghệ nhân cao tuổi — bằng chính cuộc đời cần mẫn, nhân hậu và trung thành với nghề đã làm một công việc thầm lặng nhưng lớn lao nhất: giữ cho chúng ta không bị bật rễ khỏi nơi mình thuộc về.

Xu hướng mở lớp dạy nghề, dạy khách trải nghiệm, đưa nghề lên nền tảng số… không phải để đánh bóng hình ảnh nghệ nhân mà trở thành xu thể truyền cảm hứng, lan tỏa giá trị để thế hệ con cháu biết, hiểu, yêu, tiếp lửa, đồng thời cũng để người cao tuổi ngày càng sống vui, sống khỏe, sông có ích. Văn hóa là sự tiếp biến thế hệ trên cơ sở biết yêu trẻ, kính già, tôn trọng giá trị thời gian và ký ức. Ngọn lửa nghề từ thế hệ người cao tuổi hôm nay vẫn còn đi mãi đến hậu thế bởi những người nghệ nhân cao tuổi không bao giờ mệ mỏi trên hành trình họ đã chọn.

Bài đăng trên Tạp chí Truyền thống và Phát triển số tháng 10/2025

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

TALK WITH HÀN VŨ LINH

Hàn Vũ Linh, tên thật Đặng Vũ Cảnh Linh sinh năm 1974, Hà Nội làm khoa học, viết báo, thơ và nhạc Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội Triết học, Hội Xã hội học Việt Nam, Hội âm nhạc Hà Nội...

spot_imgspot_imgspot_imgspot_img

Bài viết liên quan